Đánh giá thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế và giáo dục của trẻ em trong các gia đình công nhân di cứ làm việc tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
Sign In

Đánh giá thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế và giáo dục của trẻ em trong các gia đình công nhân di cứ làm việc tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

Báo cáo được thực hiện như một sản phẩm thuộc Sáng kiến “Tiếp cận dịch vụ giáo dục và y tế của trẻ em trong các gia đình công nhân di cư làm việc tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội”, nằm trong khuôn khổ của Quỹ Thúc đẩy Sáng kiến Tư pháp (EU JULE JIFF). EU JULE JIFF là một trong hai hợp phần của dự án “Tăng cường Pháp luật và Tư pháp tại Việt Nam” (EU JULE) do Liên minh châu Âu (EU) tài trợ. Dự án nhằm góp phần tăng cường xây dựng pháp quyền ở Việt Nam thông qua hệ thống Tư pháp tin cậy và dễ dàng tiếp cận hơn.

Nghiên cứu được thực hiện bởi Hiệp hội Giáo dục nghề nghiệp và nghề Công tác xã hội Việt Nam (VAVETSOW) với sự hỗ trợ của Bộ Tư pháp, Quỹ JIFF và Oxfam tại Việt Nam. Những người trực tiếp tham gia nghiên cứu gồm: TS. Nguyễn Hải Hữu, Phó chủ tich Hiệp hội (Giám đốc Dự án); TS. Bùi Tôn Hiến, Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội; Thạc sỹ Nguyễn Bao Cường, Thạc sỹ Tống Thị Mai Hồng, Viện Khoa học Lao động và Xã hội; TS. Nguyễn Thị Hằng, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Thạc sỹ Đậu Thị Tuấn, Cục Trẻ em và các đồng nghiệp làm việc tại Viện Khoa học Lao động và Xã hội - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
CÁC PHÁT HIỆN CHÍNH TỪ NGHIÊN CỨU
Về y tế, chăm sóc sức khỏe trẻ em
1. Chính sách và hướng dẫn thực hiện chính sách, thủ tục hành chính về lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe trẻ em được ban hành khá đầy đủ, đồng bộ và chi tiết, đảm bảo điều kiện cơ bản để thực hiện quyền trẻ em về chăm sóc sức khỏe trẻ. Tuy nhiên, nhóm phụ nữ di cư và con họ chưa được xem là nhóm đặc thù trong thiết kế chính sách; thủ tục hành chính và quy định ở một số nội dung chuyển tuyến, chuyển viện, thanh toán BHYT sau khám chữa bệnh, khám thai định kỳ, chưa tạo điều kiện thuận lợi đối với phụ nữ và trẻ em. Điều này có ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của trẻ em, đặc biệt là tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng ở các tuyến trên;
2. Do những hạn chế về chuyên môn, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế nên việc tổ chức khám bệnh, chữa bệnh của các doanh nghiệp trong KCN vẫn chủ yếu là khám sức khỏe định kỳ, việc thăm khám thai, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho lao động nữ ở mức đơn giản, tổng quát, chưa đáp ứng nhu cầu của lao động nữ.
3.  Năng lực cung cấp dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe của địa phương nơi có KCN có giới hạn, chỉ có thể đáp ứng cho một quy mô dân số nhất định; cùng với đó trang thiết bị y tế, số lượng nhân viên y tế, trình độ chuyên môn nghiệp vụ… khó có thể đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe khi quy mô dân số tăng do gia tăng nhanh số lượng người lao động di cư đến tạm trú trên địa bàn và nhu cầu cao hơn về chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe phụ nữ mang thai, trẻ em.
4. Điều kiện kinh tế khó khăn, đặc thù công việc, thời giờ làm việc của người lao động trong các KCN theo ca/kíp, nên chi phí và thời gian dành cho chăm sóc sức khỏe trẻ em rất hạn chế, chưa đảm bảo. Kết quả vẫn còn nhiều lao động nữ chưa thực hiện được việc chăm sóc thai nhi đầy đủ (trên 20%), vẫn còn hiện tượng trẻ em không được tiêm chủng đúng lịch, không được uống vitamin đầy đủ và đa số phụ nữ mang thai và trẻ em thực hiện việc chăm sóc sức khỏe chủ yếu tại các cơ sở y tế tư nhân với chất lượng dịch vụ y tế còn thấp.
5. Mức độ quan tâm, nhận thức và hiểu biết về chính sách và năng lực thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe trẻ em của người lao động di cư cũng còn rất hạn chế là rào cản đối với việc tiếp cận dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe trẻ em, ảnh hưởng đến việc đảm bảo đầy đủ quyền trẻ em được chăm sóc sức khỏe.
Về giáo dục, học tập của trẻ em
6. Chính sách giáo dục trẻ em, thủ tục hành chính để trẻ em thụ hưởng chính sách và tiếp cận các dịch vụ giáo dục được ban hành đầy đủ, chi tiết và thực hiện khá đơn giản. Chính sách đã có sự quan tâm, tạo điều kiện đối với nhóm trẻ trong độ tuổi giáo dục mầm non, tuy nhiên chưa có sự quan tâm, tạo điều kiện cho nhóm trẻ em con của công nhân di cư ở độ tuổi giáo dục phổ thông, đặc biệt là trẻ em ở độ tuổi giáo dục THPT tiếp cận với dịch vụ. Ngoài ra, chính sách về giáo dục mầm non còn nhiều quy định chưa hợp lý, chưa đồng bộ, thiếu tính khả thi và chưa có chế tài đủ mạnh để phát huy tác dụng trong thực tế, điển hình là chính sách phát triển các cơ sở giáo dục mầm non cho con công nhân trong các KCN.
7. Trẻ em là con công nhân di cư vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ giáo dục mầm non, đặc biệt là tiếp cận dịch vụ trông giữ trẻ nhỏ. Kết quả là còn khoảng 30% trẻ em di cư dưới 36 tháng tuổi chưa tiếp cận được với dịch vụ giáo dục mầm non, vẫn phải gửi vào các nhóm trông trẻ tự phát chưa đảm bảo tiêu chuẩn về chất lượng chăm sóc hoặc người lao động di cư phải đưa người thân từ quê lên ở cùng để trông trẻ.
8. Đến thời điểm hiện tại, trẻ em là con công nhân di cư vẫn tiếp cận được với dịch vụ giáo dục tiểu học và THCS, tuy nhiên đã xuất hiện những dấu hiệu của sự quá tải về cung cấp dịch vụ giáo dục ở địa phương nơi có KCN với các biểu hiện như việc tăng sỹ số học sinh trong lớp, tăng lớp học, tăng ca học.
9. Các quy định về tuyển sinh của TP. Hà Nội không thay đổi trong những năm qua, quy định về tuyển sinh đầu cấp vẫn ưu tiên đối với trẻ em có hộ khẩu thường trú có ảnh hưởng đến việc trẻ em con của công nhân tạm trú trên địa bàn tiếp cận với giáo dục phổ thông. Đặc biệt, quy định về tuyển sinh cấp THPT gắn chặt với quy định về hộ khẩu thường trú chưa tạo cơ hội cho trẻ em có hộ khẩu tạm trú tiếp cận với giáo dục công lập không chuyên ở cấp học này. Kết quả là đa số trẻ em con công nhân di cư ở độ tuổi học PTTH đã trở về theo học tại quê nhà. Như vậy, việc tiếp cận với giáo dục của trẻ em có hộ khẩu tạm trú chưa được bình đẳng với trẻ em có hộ khẩu thường trú.
10. Sự hỗ trợ của địa phương, doanh nghiệp và công đoàn cơ sở đối với trẻ em là con công nhân di cư trong việc tiếp cận các dich vụ y tế và giáo dục đã phần nào giúp cho trẻ em tiếp cận tốt hơn đến dịch vụ, tuy nhiên các hoạt động hỗ trợ chưa mang tính liên tục, toàn diện và còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thực tế của địa phương, doanh nghiệp, công đoàn, chưa thực sự gắn chặt với trách nhiệm pháp lý của chính quyền, doanh nghiệp và công đoàn cơ sở.
Kết luận
❖      Về lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe trẻ em
1. Chính sách nhà nước, thủ tục hành chính về lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe trẻ em được ban hành khá đầy đủ, đồng bộ, đảm bảo điều kiện cơ bản để mọi trẻ em được chăm sóc tốt nhất từ khi trẻ còn phôi thai, ở từng độ tuổi, từng giai đoạn phát triển của trẻ cho đến khi trẻ trưởng thành. Tuy nhiên, trẻ em và phụ nữ di cư chưa được xem là nhóm đặc thù hoặc nhóm được ưu tiên trong thiết kế chính sách như một số nhóm phụ nữ và trẻ em khác;
2. Các thủ tục hành chính để đảm bảo trẻ em được hường thụ chính sách và tiếp cận được với các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe trẻ em đã được hướng dẫn chi tiết, cụ thể và đầy đủ, từ thủ tục đăng ký BHYT, thay đổi nơi khám chữa ban ban đầu, thủ tục sử dụng khám bệnh, chữa bệnh bằng thẻ BHYT và các thủ tục về theo dõi sức khỏe định kỳ cho phụ nữ mang thai, tiêm chủng, dinh dưỡng, uống vitamin ở trẻ em; Tuy nhiên, việc thực hiện thủ tục hành chính ở một số nội dung còn tương đối phức tạp đối với đối tượng hưởng thụ chính sách, điển hình là thủ tục hành chính về chuyển tuyến khám chữa bệnh, chuyển viện, thủ tục thanh toán BHYT… có ảnh hưởng đến việc tiếp cận dịch vụ y tế của trẻ em con công nhân di cư làm việc tại các KCN;
3. Việc tổ chức cung cấp dịch vụ y tế, do mỗi xã chỉ có 01 trạm y tế nên chỉ có thể cung cấp dịch vụ cho một quy mô dân số nhất định, khi số người di cư tăng nhanh, năng lực cung cấp dịch vụ không đáp ứng được đầy đủ; bên cạnh đó, trang thiết bị y tế, số lượng nhân viên y tế, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân nói chung, phụ nữ mang thai và trẻ em nói riêng;
4. Việc tiếp cận dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe của trẻ em con công nhân di cư còn hạn chế, đặc biệt là tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cao, trên 20% lao động nữ mang thai chưa thực hiện được việc chăm sóc thai đầy đủ, khoảng 13% lao động nữ nuôi con nhỏ không nhận được tư vấn, hỗ trợ về chăm sóc sức khỏe trẻ em, đã có một số trường hợp trẻ em không được tiêm chủng đúng lịch, không được uống vitamin đầy đủ, đặc biệt có 34,7% trẻ bị ốm đau trong 12 tháng qua chỉ được thăm khám, điều trị tại các phòng khám tư nhân;
5. Các rào cản chủ yếu trong việc tiếp cận dịch vụ y tế của trẻ em con công nhân di cư bao gồm: (i) Không sẵn có cơ sở y tế hoặc cơ sở y tế đủ điều kiện chăm sóc sức khỏe bà mẹ mang thai; (ii) Người lao động không tiếp nhận được thông tin hoặc thông tin không kịp thời về các chương trình chăm sóc sức khỏe trẻ em triển khai trên địa bàn nơi tạm trú; (iii) Hầu hết đăng ký nơi KCB ban đầu của trẻ em là cơ sở y tế ở quê nhà, việc khám bệnh và điều trị ngoại trú chỉ được thanh toán 1 phần/không được thanh toán, thủ tục chuyển tuyến KCB, chuyển viện còn phức tạp; (iv) Người lao động trong KCN khó khăn trong việc bố trí thời gian để thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe trẻ em; (v) Điều kiện kinh tế của đa số người lao động trong KCN eo hẹp, khả năng chi trả dịch vụ y tế chỉ ở mức tối thiểu.
❖      Về lĩnh vực giáo dục trẻ em
6.  Chính sách giáo dục trẻ em đã được ban hành khá đầy đủ, từ học nhà trẻ, mầm non, mẫu giáo, các cấp học phổ thông và học nghề. Ở mỗi cấp học, các chính sách đều hướng tới đảm bảo điều kiện để trẻ em ở mọi lứa tuổi có thể tham gia giáo dục học tập được thuận lợi nhất, chính sách giáo dục đã có sự quan tâm đến nhóm trẻ em là con người lao động trong KCN. Tuy nhiên, chính sách tập trung sự quan tâm chủ yếu vào nhóm trẻ trong độ tuổi Mầm non, còn lại các cấp học phổ thông, đặc biệt là cấp THPT chưa có sự quan tâm đến nhóm trẻ em tạm trú. Nhóm chính sách Mầm non tập trung vào việc hỗ trợ trẻ em về vật chất như tiền hỗ trợ chi phí, bữa ăn trưa, uống sữa miễn phí và khuyến khích các KCN phát triển cơ sở nhà trẻ, mầm non, chế độ giáo viên mầm non, tuy nhiên nhiều quy định chính sách còn chưa hợp lý, chưa có chế tài đủ mạnh để phát huy tác dụng trong thực tế. Ở nhóm chính sách đối với học sinh các cấp học phổ thông, các quy định về tuyển sinh đầu cấp vẫn ưu tiên đối với trẻ em có hộ khẩu thường trú, đặc biệt quy định về tuyển sinh cấp THPT gắn chặt với quy định về hộ khẩu đã lấy đi cơ hội tiếp cận với giáo dục công lập không chuyên ở cấp học này của trẻ em không có hộ khẩu thường trú ở TP.Hà Nội;
7. Thủ tục hành chính để hưởng thụ và tiếp cận chính sách giáo dục được ban hành đầy đủ, chi tiết và khá đơn giản, cha mẹ và học sinh có thể thực hiện thuận lợi. Thủ tục để trẻ tham gia giáo dục Mầm non có quy định chung, không có sự khác biệt giữa cơ sở công lập và giữa các nhóm trẻ em. Tương tự, thủ tục nhập học Tiểu học, THCS của trẻ em theo quy định chung, không có sự khác biệt giữa trường công lập và trường tư thục, khác biệt giữa các nhóm trẻ em địa phương và trẻ em tạm trú;
8. Trẻ em thuộc các hộ gia đình di cư làm việc tại các KCN trong độ tuổi mầm non tiếp cận khá tốt với dịch vụ. Tỷ lệ trẻ tham gia giáo dục Mầm non đạt trên 85%. Đa số trẻ em học Mầm non tập trung ở các cơ sở giáo dục công lập và tư thục đóng trên địa bàn xã nơi tạm trú, tỷ lệ trẻ đi học các cơ sở của KCN là rất thấp, dưới 6%;
9. Gần 1/3 số trẻ em tham gia giáo dục Mầm non nhận được chính sách hỗ trợ. Hình thức hỗ trợ chủ yếu là được uống sữa miễn phí, được hỗ trợ bữa ăn trưa, được hỗ trợ học phí và khoảng 8% được hỗ trợ tiền mặt. Các hỗ trợ do nhà nước, chính quyền địa phương và doanh nghiệp cùng thực hiện, trong đó nhà nước đóng vai trò chủ đạo với tỷ lệ  nhà nước chiếm 47,3%. Các hỗ trợ chủ yếu của doanh nghiệp là hỗ trợ con người lao động tiền mặt, bữa ăn trưa;
10. Thời gian trông giữ trẻ của các cơ sở giáo dục Mầm non, đặc biệt là cơ sở công lập theo giờ hành chính, không giữ trẻ ngoài giờ, ngày nghỉ, ngày lễ, trong khi đó đa số công nhân làm ca và 01 ngày cuối tuần nên nhiều trường hợp cha mẹ không thể gửi trẻ vào các cơ sở cộng lập do không đáp ứng đươc yêu cầu về giờ giấc và phải lựa chọn các cơ sở tư thục với chi phí cao hơn, đặc biệt đối với trẻ ở độ tuổi nhà trẻ, rất nhiều trường hợp không được trông giữ ở các cơ sở giáo dục, phải ở nhà (ông/bà trông giữ) hoặc được gửi cho các điểm trông giữ trẻ tự phát, những điểm giữ trẻ này thường do một người nhận trông giữ và đa số không đảm bảo điều kiện tối thiểu để chăm sóc trẻ;
11. Việc tiếp cận giáo dục phổ thông của trẻ em là con công nhân di cư ở cấp Tiểu học và Trung học cơ sở tương đối tốt, khoảng 98% trẻ em di cư tiếp cận được với các cơ sở giáo dục công lập trên địa bàn ở 2 cấp học này; tuy nhiên đến cấp Trung học phổ thông, nhóm trẻ em này không tiếp cận được với các cơ sở giáo dục công lập và cũng rất hạn chế trong việc tiếp cận với các cơ sở giáo dục tư thục  do chi phí học tập lớn. Do vậy, đa số các em sau khi hoàn thành chương trình học PTCS ở nơi tạm trú sẽ rời gia đình về quê theo học THPT;
12. Hạ tầng cơ sở giáo dục cấp Tiểu học và THCS ở các xã có địa bàn KCN và các xã lân cận được đánh giá khá tốt, hiện tại vẫn đủ khả năng tiếp nhận trẻ em tạm trú, tuy nhiên đa số các cơ sở giáo dục này đã phải mở rộng quy mô thông qua các hình thức phổ biến là tăng thêm lớp ở mỗi cấp học hoặc tăng số lượng học sinh trong mỗi lớp học, phần nào tạo ra sức ép lên giáo viên và ảnh hưởng đến chất lượng học tập;
13. 05 KCN khảo sát đều được thành lập từ nhiều năm trước đây và chưa có quy hoạch về xây dựng nhà ở, cơ sở giáo dục mầm non và các thiết chế văn hóa, xã hội phục vụ người lao động. Do đó người lao động có con nhỏ mất đi cơ hội gửi con trong KCN để phù hợp với thời gian làm việc và sinh hoạt cuộc sống, giảm chi phí;
14. Đối với trẻ em là con công nhân di cư, việc lựa chọn học trường Mầm non nào rất quan trọng đối với việc trẻ có được tiếp nhận vào Tiểu học một cách thuận lợi hay không mặc dù không có quy định khác biệt giữa các nhóm trẻ, tuy nhiên trên thực tế nếu trẻ học các trường Mầm non công lập thì việc chuyển lên học Tiểu học sẽ thuận lợi hơn rất nhiều;
15. Khi tình trạng trẻ em là con công nhân di cư tiếp tục và gia tăng, các cơ sở giáo dục địa phương cần phải tính đến việc quy hoạch, phát triển, mở rộng quy mô, năng lực của các cơ sở giáo dục tại các địa phương có KCN và địa phương lân cận là rất cần thiết;
16.  Ước tính thu nhập bình quân hộ gia đình công nhân di cư làm việc tại các KCNH trên địa bàn Hà Nội đạt 12,1 triệu đồng/tháng, bình quân nhân khẩu chỉ đạt 3,2 triệu đồng/tháng, mức thu nhập này là rất thấp so với mặt bằng thu nhập chung của TP. Hà Nội. Tài chính hạn hẹp có ảnh hưởng rất lớn đến việc chăm sóc sức khỏe và đầu tư giáo dục cho trẻ em trong hộ gia đình người lao động làm việc tại các KCN trên địa bàn TP. Hà Nội;
18. Đa số cha mẹ của trẻ em là công nhân trực tiếp sản xuất (76,8%), làm việc theo chế độ ca kíp (gần 80%) nên thời gian dành cho việc chăm sóc trẻ em khá hạn hẹp, gặp nhiều khó khăn trong việc bố trí thời gian để đưa đón trẻ em trong quá trình đi học và tham gia các chương trình y tế triển khai ở địa phương;
19. Nhìn chung, mức độ quan tâm, nhận thức, hiểu biết, kiến thức, năng lực tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục trẻ em của các hộ gia đình người lao động di cư làm việc tại các KCN còn rất hạn chế;
20. Việc triển khai một số hoạt động truyền thông và thực hiện tư vấn ban đầu cho hộ gia đình người lao động di cư có trẻ em làm việc tại các KCN về chính sách, thủ tục hành chính trong lĩnh vực vực y tế và giáo dục trẻ em trong quá trình thực hiện nghiên cứu thực địa đã thu hút sự quan tâm của người lao động di cư, chính quyền địa phương và có tác động góp phần tăng cường nhận thức và năng lực của hộ gia đình người lao động di cư làm việc trong các KCN tiếp cận với các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và giáo dục trẻ em trên địa bàn.
5.2 Khuyến nghị
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, đặc điểm điều kiện của người lao động di cư làm việc  trong các KCN, bối cảnh kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng của các địa phương có KCN trên địa bàn TP. Hà Nội và những vấn đề có liên quan, có thể thấy để đảm bảo trẻ em thuộc các hộ gia đình công nhân di cư làm việc trong các KCN được thụ hưởng đầy đủ chính sách và tiếp cận tốt hơn đến các dịch vụ y tế và giáo dục cần quan tâm đến một số vấn đề dưới đây.
(i)  Về chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện
1. Chính sách nhà nước về lĩnh vực y tế, giáo dục cần có sự quan tâm thỏa đáng hơn đến nhóm trẻ em di cư thuộc các hộ gia đình người lao động làm việc tại các KCN, xem xét, cân nhắc một số ưu tiên đối với  nhóm trẻ em di cư, như: (i) Trẻ em di cư được quyền KCB trái tuyến và được thanh toán BHYT như đối với KCB đúng tuyến; (ii) Bỏ quy định hộ khẩu đối với trẻ em khi tuyển sinh vào các cấp học phổ thông trên địa bàn TP. Hà Nội;
2.  Bộ Y tế, Bộ Tài chính và Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần phối hợp, rà soát toàn diện định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá vật tư y tế làm cơ sở xây dựng giá dịch vụ khám, chữa bệnh BHYT phù hợp quy trình chuyên môn nghiệp vụ,  đảm bảo tính đúng, tính đủ chi phí theo quy định, đặc biệt xem xét việc quỹ BHYT thanh toán chi phí sản phẩm chuyên biệt điều trị trẻ em suy dinh dưỡng nặng cấp tính, trẻ sơ sinh non yếu, trẻ bị rối loạn dinh dưỡng nhằm tăng cường chất lượng khám, chữa bệnh và quyền lợi của trẻ em. Đồng thời, rà soát, sửa đổi quy định, hướng dẫn thủ tục liên quan đến thanh toán BHYT, đồng nhất biểu, mẫu để đảm bảo các cơ sở y tế khám chữa bệnh ghi đầy đủ thông tin trên giấy tờ xuất viện làm thủ tục thanh toán bảo hiểm xã hội được thuận lợi;
3. Bộ Y tế, Bảo hiểm xã hội Việt Nam xem xét, điều chỉnh quy định về thanh toán BHYT khám chữa bệnh trái tuyến, đặc biệt là ở tuyến tỉnh và tuyến Trung ương, quỹ Bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí KCB trái tuyến đối với trẻ em thuộc các hộ gia đình người lao động di cư làm việc tại các KCN;
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội rà soát, xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định về tuyển sinh đầu cấp đối với các cấp học phổ thông, đặc biệt là cấp THPT trên địa bàn TP. Hà Nội. Xem xét việc bỏ quy định xét tuyển 2 đợt đối với cấp Tiểu học và Trung học cơ sở như hiện nay và bỏ quy định về hộ khẩu thường trú trên địa bàn thành phố khi tuyển sinh vào các trường THPT không chuyên để tạo điều kiện và tháo gỡ rào cản đối với trẻ em con công nhân di cư làm việc trong các KCN trên địa bàn thành phố tiếp cận được với giáo dục phổ thông công lập, đảm bảo bình đẳng giữa các nhóm trẻ em sinh sống trên địa bàn thành phố;
5. Cần tiếp tục xây dựng và triển khai Đề án “Hỗ trợ, phát triển nhóm trẻ độc lập tư thục ở khu vực khu công nghiệp, khu chế xuất đến năm 2020” tại Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 của Chính phủ và Nghị định số 105/2020/NĐ-CP, ngày 08 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ về chính sách phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2 để thúc đẩy sự phát triển các cơ sở giáo dục mầm non độc lập dân lập, tư thục ở địa bàn có KCN, nơi có nhiều lao động di cư;
6.  Bộ LĐTB&XH cần quan tâm và phối hợp với các bên liên quan như ngành y tế và giáo dục để tổ chức truyền thông, phổ biến chính sách y tế, chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ mang thai và trẻ em, các chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, chương trình tiêm chủng, chính sách BHYT và các thủ tục hành chính trong lĩnh vực y tế; tuyên truyền phổ biến chính sách giáo dục, đặc biệt là giáo dục mầm non và các chính sách, quy định liên quan đến đăng ký khai sinh, tạm trú và các vấn đề về môi trường sống an toàn của trẻ em để nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi và tăng cường năng lực cho người lao động di cư làm việc trong các KCN trong việc đảm bảo tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và giáo dục đối với trẻ em, thúc đẩy đảm bảo quyền trẻ em. Các hoạt động truyền thông cho đối tượng là người lao động di cư làm việc trong các KCN nên tập trung trọng tâm vào truyền thông, phổ biến các thủ tục hành chính tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục và môi trường sống an toàn cho trẻ em trên địa bàn phù hợp với điều kiện của người lao động và thực tế địa phương nơi người lao động và gia đình tạm trú.
(ii) Khuyến nghị đối với các địa phương có KCN và địa phương lân cận KCN
 1. UBND TP. Hà Nội khi xem xét phê duyệt, quyết định thành lập mới các khu công nghiệp, khu chế xuất cần yêu cầu doanh nghiệp, nhà đầu tư cam kết bảo đảm điều kiện thực hiện quyền của nữ công nhân mang thai và trẻ em con của họ; yêu cầu chính quyền địa phương nơi đề xuất KCN có phương án khả thi quy hoạch cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, trong đó phải dự báo về nhân khẩu lao động di cư và trẻ em sẽ tăng thêm để thiết kế quy mô dịch vụ giáo dục, y tế có đủ năng lực cung cấp dịch vụ cho cả các gia đình công nhân KCN tạm trú trên địa bàn. Chỉ cấp phép cho KCN khi trong hồ sơ trình đã có đầy đủ các phương án đưa ra được đánh giá tốt và có tính khả thi. Điều này sẽ khắc phục tình trạng các KCN hoạt động và phát sinh nhu cầu rồi thì chính quyền địa phương và các ngành chức năng mới tìm cách giải quyết một cách bị động;
2. UBND TP. Hà Nội cần chỉ đạo các bên liên quan rà soát lại toàn bộ các KCN đã được quy hoạch để có những điều chỉnh cho phù hợp với thực tế, trong đó ưu tiên quỹ đất để phát triển nhà trẻ, mầm non, mẫu giáo cho con người lao động và nhà ở công nhân trong các khu công nghiệp;
3. Các xã có KCN cần xem xét và đề nghị cấp có thẩm quyền cho phép để mở rộng quy mô, năng lực cung cấp dịch vụ y tế thông qua thiết lập các điểm KCB trực thuộc quản lý của trạm y tế xã, tăng cường nhân lực y tế, đầu tư thiết bị y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ. Đồng thời, tăng cường thông tin đến người dân, nhất là người lao động làm việc trong các KCN tạm trú trên địa bàn về các chương trình y tế, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, chương trình tiêm chủng mở rộng; áp dụng công nghệ thông tin, hỗ trợ lao động nữ di cư mang thai, nuôi con nhỏ, ứng dụng công nghệ thông tin để tiếp nhận thông tin về các chương trình y tế, chăm sóc sức khỏe của địa phương, đảm bảo thông tin đến với đối tượng kịp thời, tạo điều kiện để người lao động làm việc tại các KCN trao đổi với doanh nghiệp bố trí thời gian nghỉ phù hợp, khớp với thời gian triển khai các chương trình y tế của địa phương và đưa trẻ tham gia đầy đủ;
4. Các xã có KCN cần xem xét và đề nghị cấp có thẩm quyền cho phép tăng cường năng lực cung cấp dịch vụ giáo dục, trước mắt cần tập trung tăng cường năng lực cho các cơ sở nhà trẻ, mẫu giáo, mầm non công lập hiện có thông qua việc mở thêm các điểm, cơ sở, tăng giáo viên, tăng quy mô tiếp nhận trẻ, thí điểm triển khai trông giữ trẻ ngoài giờ hành chính để hỗ trợ người lao động di cư; trong tương lai gần cũng cần quan tâm đến mở rộng quy mô và năng lực cho các trường Tiểu học và THCS công lập;
5. Các xã có KCN cần quan tâm, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các trường Mầm non tư thục, đây là những cơ sơ mầm non có thể tổ chức được việc trông gữi trẻ nhỏ với thời gian biểu linh hoạt để người lao động có thêm lựa chọn phù hợp trong việc gửi con nhỏ, đặc biệt là đối với người lao động di cư làm việc trong các KCN tạm trú trên địa bàn;
6. Các xã có KCN và xã lân cận KCN cần tiến hành rà soát, thống kê số lượng người di cư đến địa phương, trong đó có trẻ em, làm cơ sở để tính toán, quy hoạch hạ tầng cơ sở thiết yếu, trong đó ưu tiên mở rộng quy mô, năng lực cung cấp dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và dịch vụ giáo dục Mầm non, Tiểu học và Trung học cơ sở;
7. Sổ tạm trú là tiền đề quan trọng để hỗ trợ và đảm bảo cho trẻ em trong các hộ gia đình người lao động làm việc tại các KCN chủ động tiếp cận với các dich vụ y tế, giáo dục nơi tạm trú. Vì vậy, chính quyền các địa phương có KCN cần tăng cường vận động, tạo điều kiện và hỗ trợ người lao động tại các KCN tạm trú trên địa bàn thực hiện việc đăng ký tạm trú, cấp sổ tạm trú cho người lao động di cư với thời gian tạm trú từ 12 - 24 tháng một lần đăng ký thay cho 6 tháng một lần đăng ký để hỗ trợ người lao động di cư tiết kiệm thời gian và thuận lợi hơn trong các thủ tục hành chính khác có liên quan đến sổ tạm trú.
(iii) Khuyến nghị đối với Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp, tổ chức Công đoàn
1.  Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tiếp tục và tăng cường chỉ đạo Công đoàn Ban quản lý các Khu công nghiệp, Khu chế xuất Hà Nội, công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp thuộc các KCN thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Bộ Luật lao động đối với lao động nữ, chú trọng nội dung về xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo, hỗ trợ chi phí gửi trẻ, mẫu giáo đối với lao động nữ có con nhỏ; đề xuất  chính sách ưu đãi doanh nghiệp tự xây dựng nhà trẻ, trường mầm non, mẫu giáo cho con công nhân; Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức và nâng cao chất lượng khám sức khỏe định kỳ cho người lao động, đặc biệt là khả năng thực hiện chăm sóc sức khỏe lao động nữ mang thai;
2. Công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc thương lượng/đàm phán với người sử dụng lao động ký kết thỏa ước lao động tập thể có nội dung trợ giúp, trợ cấp đối với lao động có con gửi nhà trẻ, mầm non, mẫu giáo; tạo điều kiện và bố trí thời gian nghỉ cho lao động nữ thực hiện khá thai định kỳ và chăm sóc con nhỏ khi ốm đau;
3. Công đoàn cơ sở, ban nữ công doanh nghiệp nên được phân công nhiệm vụ làm đầu mối kết nối với chính quyền địa phương, tiếp nhận và cung cấp thông tin về chế độ, chính sách, các chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em... đến người lao động; ứng dụng công nghệ thông tin để bảo đảm mọi thông tin đến người lao động được kịp thời, đầy đủ, khắc phục tình trạng công nhân không biết đến hoặc bỏ lỡ thông tin, không tiếp cận được chính sách./.