Nằm trong khuôn khổ của Quỹ Thúc đẩy Sáng kiến Tư pháp (EU JULE JIFF). EU JULE JIFF là một trong hai hợp phần của dự án "Tăng cường Pháp luật và Tư pháp tại Việt Nam" (EU JULE) do Liên minh châu Âu (EU) tài trợ, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát nằm trong hoạt động thuộc Sáng kiến “Nâng cao nhận thức pháp luật và trợ giúp pháp lí về lao động, việc làm, thực thi thủ tục hành chính trong lĩnh vực y tế, giáo dục cho người khuyết tật”. Dự án nhằm góp phần tăng cường xây dựng pháp quyền ở Việt Nam thông qua hệ thống Tư pháp tin cậy và dễ dàng tiếp cận hơn.
Nhóm nghiên cứu:
- Luật sư Nguyễn Thị Thúy
Điện thoại: 0912001950
Email:
thanhthuy1062@gmail.com
- Đinh Việt Anh – Phó chủ tịch, Hội Người mù Việt Nam
Điện thoại: 0989313147
Email:
dinhvietanh78@gmail.com
- Trần Thị Hồng Hải – Hội Người mù Việt Nam
Điện thoại: 0977738687
Email:
haitranvba@gmail.com
THÔNG TIN CHUNG
Khảo sát này nhằm nắm bắt, thu thập thông tin về (i) nhận thức của người khuyết tật (NKT), người sử dụng lao động là NKT, nhân viên y tế, cán bộ giáo dục, gia đình NKT, cộng đồng … đối với các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, y tế và giáo dục, trong đó có các quy định dành cho NKT; (ii) thực trạng triển khai các chính sách, pháp luật đối với NKT; cũng như (iii) nhu cầu tập huấn và trợ giúp pháp lí; để triển khai hiệu qủa các hoạt động của dự án, đưa ra các kiến nghị, đề xuất bổ sung, sửa đổi các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, y tế và giáo dục để chuyển tới các cơ quan chức năng.
Thời gian: Từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2020.
Địa điểm: Trên địa bàn Thành phố Hà Nội
- Đối tượng: 200 người tham gia trả lời bảng hỏi, trong đó có 10 người trả lời phỏng vấn sâu
Trong 200 người được khảo sát, nam là 100 người (chiếm 50%), 100 nữ (chiếm 50%); 160 người khuyết tật (80%), 40 người là đại diện các bên liên quan, gia đình NKT, nhân viên y tế, cán bộ giáo dục và một số cá nhân trong cộng đồng.
Bảng 1: Đối tượng tham gia khảo sát theo giới tính
| Đối tượng KS |
Nam |
Nữ |
Tổng tỉ lệ
(%) |
| Số lượng |
Tỉ lệ |
Số lượng |
Tỉ lệ |
|
| NKT |
89 |
44.5 |
71 |
35.5 |
80 |
| KKT |
11 |
5.5 |
29 |
14.5 |
20 |
| Tổng |
100 |
50 |
100 |
50 |
|
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
Số phiếu khảo sát được thu thập từ 12 quận (111 phiếu) và 14 huyện (89 phiếu)
Biểu đồ 1: Tỉ lệ mẫu khảo sát theo quận, huyện
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
200 mẫu khảo sát được chia theo các nhóm tuổi sau:
Dưới 20 tuổi: 9 người (4,5%)
Từ 20 - 40 tuổi: 62 người (31%)
Từ 41 - 60 tuổi: 90 người (45%)
Trên 60 tuổi: 39 người (19,5%)
Biểu đồ 2: Tỉ lệ mẫu khảo sát theo nhóm tuổi
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
Có 160 NKT tham gia khảo sát, được chia thành 05 nhóm khuyết tật gồm:
KT vận động: 48 người (30%)
KT nhìn: 80 người (50%)
KT nghe, nói: 23 người (14.37%)
KT thần kinh, tâm thần: 6 người (3.75%)
KT trí tuệ: 3 người (1.88%)
Biểu đồ 3: Tỉ lệ mẫu khảo sát theo dạng khuyết tật
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
Tỉ lệ mẫu khảo sát theo mức độ khuyết tật:
KT đặc biệt nặng: 46 người, chiếm 28.75%
KT nặng: 85 người, chiếm 53.13%
KT nhẹ: 16 người, chiếm 10%
Chưa được xác định MĐKT: 13 người, chiếm 8.12%
Biểu đồ 4: Tỉ lệ mẫu khảo sát theo mức độ KT
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
- Phương pháp: Kết hợp định tính và định lượng qua tổng quan tài liệu, bảng hỏi khảo sát và phỏng vấn sâu.
Qua rà soát, đánh giá các văn bản chính sách, pháp luật đối với NKT trong các lĩnh vực lao động, việc làm; y tế và giáo dục cho thấy: Nhìn chung, Nhà nước Việt Nam đã có một hệ thống chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật tương đối đầy đủ, toàn diện. Các chính sách, pháp luật đối với NKT hiện nay đã thay đổi từ cách tiếp cận "từ thiện" sang cách tiếp cận dựa trên quyền, coi người khuyết tật là một bộ phận của nguồn nhân lực xã hội, được tạo cơ hội để chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học tập, lao động nhằm khắc phục khó khăn, phát huy khả năng vươn lên hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, các văn bản chính sách, pháp luật vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, cần được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp nhằm đảm bảo thực hiện tốt hơn quyền của người khuyết tật.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy: NKT còn gặp nhiều khó khăn, rào cản trong việc đảm bảo thực hiện quyền và thụ hưởng các chính sách hỗ trợ mà Nhà nước đã ban hành. Số NKT được học tập, có việc làm nhìn chung còn thấp. Nhiều NKT còn bị từ chối hoặc gặp vướng mắc khi đi khám chữa bệnh, làm thủ tục xin nhập học, xin việc; bị ngược đãi trong quá trình làm việc... Điều đáng nói là khi bị từ chối hoặc gặp vướng mắc, có đến gần 80% NKT chọn giải pháp im lặng, không lên tiếng vì họ không biết liên hệ với ai để nhận được sự hỗ trợ hoặc không tin rằng vấn đề sẽ được giải quyết.
Để khắc phục tình trạng nói trên, cần tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả; trong đó, việc nâng cao nhận thức cho NKT, gia đình, các bên liên quan và sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật đối với NKT trong các lĩnh vực nêu trên là vô cùng quan trọng./.