QUYỀN TIẾP CẬN TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NHÓM NGƯỜI YẾU THẾ
Sign In

QUYỀN TIẾP CẬN TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NHÓM NGƯỜI YẾU THẾ

Hiện nay, thuật ngữ “người yếu thế” được coi là một thuật ngữ pháp lý nhưng vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về nhóm đối tượng này trong xã hội. Hiểu một cách đơn giản, người thuộc đối tượng yếu thế là người bị hạn chế một phần năng lực tự nhiên hoặc do những yếu tố xã hội quy định khiến họ bị đánh giá thấp về địa vị trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện và năng lực có sẵn như nhau. Theo đó, pháp luật quốc tế đã ghi nhận quyền con người của một số nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội bao gồm: Phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người đồng tính, lưỡng tĩnh và chuyển giới, người tị nạn… Tương tự như pháp luật quốc tế, pháp luật của Việt Nam cũng ghi nhận những nhóm yếu thế gồm trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số… Bên cạnh đó, do yếu tố đặc thù về kinh tế - xã hội, pháp luật Việt Nam cũng quy định thêm một số nhóm người khác gọi chung là nhóm những người sống trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do nghèo đói, bệnh tật và tác động của môi trường.

Cũng giống như các chủ thể khác trong xã hội, nhóm đối tượng yếu thế tại Việt Nam được quyền tiếp cận các thông tin của cơ quan nhà nước, chỉ trừ những thông tin không được tiếp cận theo quy định tại Điều 6 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016; được tiếp cận có điều kiện đối với thông tin quy định tại Điều 7 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016. Riêng đối với người mất năng lực hành vi dân sự, thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người giám hộ và người dưới 18 tuổi yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp luật về trẻ em và luật khác có quy định khác. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 đã quy định về phạm vi quyền tiếp cận thông tin theo cách liệt kê những thông tin không được tiếp cận và tiếp cận có điều kiện. Việc quy định này khá phù hợp, tương thích với pháp luật của các quốc gia trên thế giới, đó là những thông tin về an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, sức khỏe cộng đồng, đạo đức xã hội. Việc quy định này nhằm khẳng định rõ quyền tiếp cận thông tin, đồng thời, cũng giới hạn phạm vi tiếp cận thông tin theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013. Như vậy, có thể thấy, về cơ bản thì quyền tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế cũng giống như quyền tiếp cận thông tin của các công dân khác trong xã hội, pháp luật không có sự phân biệt, đối xử giữa các chủ thể này trong xã hội.
Nhìn chung, pháp luật của Việt Nam đã có những quy định về bảo đảm quyền được tiếp cận của nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội. Quyền tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng này đã thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cũng như của toàn xã hội đối với người yếu thế. Chủ trương của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về bảo đảm quyền của nhóm đối tượng yếu thế nói riêng nhằm hướng tới mục tiêu bảo đảm quyền con người, thực hiện chính sách kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích của nhóm đối tượng yếu thế, giải quyết tình trạng xâm phạm đến quyền của những đối tượng này trong xã hội đã được quan tâm thực hiện. Bên cạnh đó, các quy định về quyền tiếp cận thông tin trong Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 đã trở thành khung pháp lý cơ bản trong việc thúc đẩy thực hiện quyền tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội. Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển, nhóm đối tượng yếu thế càng được quan tâm hơn trên nhiều phương diện, được nâng cao hơn về đời sống vật chất cũng như tinh thần nên các văn bản quy phạm pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế đã tương đối bám sát nhu cầu của thực tiễn của nhóm đối tượng này trong thực tiễn. Thông qua các quy định của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế, Nhà nước đã rất chú trọng đến quyền được tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng này, đến trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải thực hiện việc công khai các thông tin trong hoạt động của mình. Thông qua đạo luật này, đã giúp cho người dân nhận thức rõ được sự quan trọng của thông tin và quyền tiếp cận thông tin trong đời sống, để mọi người dân nói chung và nhóm đối tượng yếu thế nói riêng có cơ hội bình đẳng như nhau trong việc tìm kiếm các nguồn thông tin trong xã hội.
Mặc dù, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về quyền tiếp cận thông tin, tuy nhiên, nhóm đối tượng yếu thế khi thực hiện quyền này trong thực tiễn vẫn còn những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, nhóm đối tượng yếu thế được quy định tại nhiều đạo luật khác nhau nên không tránh khỏi có những quy định chưa thống nhất, thời điểm hiệu lực pháp lý khác nhau, từ đó, việc triển khai áp dụng đồng bộ các biện pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho nhóm đối tượng yếu thế cũng gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và các văn bản hướng dẫn Luật này chưa có quy định cụ thể về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội, mà chỉ quy định chung đối tượng tiếp cận thông tin là công dân.
Thứ hai, hiện nay, mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2018/NĐ-CP ngày 23/01/2018 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Tiếp cận thông tin, tuy nhiên, trên thực tế, việc tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Theo kết quả khảo sát do Trung tâm Tư vấn hỗ trợ hòa nhập người khuyết tật Thành phố Hà Nội thực hiện cho thấy, 85% người khuyết tật chưa biết đến quyền tiếp cận thông tin và chỉ 23% người khuyết tật được đáp ứng về thông tin, trong khi nhu cầu của nhóm đối tượng này lên đến 92%. Ngoài ra, một khảo sát của Tổ chức Care quốc tế tại Việt Nam được thực hiện tại 05 xã thuộc các tỉnh Cao Bằng, Điện Biên và Bắc Kạn cũng cho thấy, mặc dù người dân tộc thiều số ở 05 xã đều hài lòng với các thông tin liên quan đến lĩnh vực giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội, tuy nhiên, họ lại ít hài lòng với các thông tin về luật pháp, chính sách và các vấn đề xã hội vì các thông tin này không được cung cấp đầy đủ, chính xác và thường xuyên; đặc biệt, các thông tin về tình hình phát triển kinh tế, các chương trình cho vay, khuyến nông cũng không được cập nhật thường xuyên do chính quyền địa phương cung cấp mới chỉ mang tính một chiều và hạn chế về hình thức truyền tải, do đó, chưa đạt hiệu quả cao.
Thứ ba, tại nhiều địa phương, đặc biệt là địa phương ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, các điều kiện về cơ sở vật chất, nguồn kinh phí để phục vụ việc tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế vẫn còn rất hạn chế. Chủ yếu là ở cấp xã chưa được kết nối mạng internet hoặc có kết nối nhưng mạng không ổn định, chưa được bố trí các trang thiết bị cần thiết như máy in, máy photocopy… để phục vụ cho hoạt động cung cấp thông tin. Bên cạnh đó, trình độ dân trí không đồng đều cũng là một trong những khó khăn, trở ngại trong việc cung cấp thông tin qua hệ thống mạng điện tử.
Xuất phát từ hạn chế về quyền tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường cơ chế bảo đảm quyền này trong thực tiễn hiện nay, cụ thể:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật nói chung và các quy định của pháp luật về tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế nói riêng. Như đã phân tích ở trên, đối tượng yếu thế bao gồm phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người đồng tính, lưỡng tĩnh và chuyển giới, người tị nạn… Tuy nhiên, hiện nay, theo các văn bản quy phạm quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 thì mới chỉ có những quy định chung về việc cung cấp thông tin cho người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số, còn những người yếu thế khác như người đồng tính, lưỡng tính và chuyển giới, người tị nạn… lại chưa được quy định. Ngoài ra, hiện nay, pháp luật Việt Nam vẫn chưa quy định về quyền chuyển đổi giới tính. Do đó, khi một người chuyển giới ở Việt Nam muốn yêu cầu tiếp cận thông tin từ các cơ quan nhà nước thì đều gặp phải rào cản vì hình dáng bên ngoài của họ không tương ứng với giới tính của họ, có nghĩa là, nhận định giới tính pháp lý là nam hay nữ trên các giấy tờ chính thức chưa được công nhận. Chính điều này là nguy cơ tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ thể trong xã hội với nhóm đối tượng yếu thế. Mặc dù, Điều 37 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”, tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định cụ thể, chi tiết về quyền chuyển đổi giới tính. Do đó, việc nghiên cứu, ban hành các quy định pháp luật về quyền chuyển đổi giới tính sẽ góp phần giúp cho người chuyển giới được thực hiện các quyền của mình trong thực tiễn, trong đó, có quyền tiếp cận thông tin.
Thứ hai, nghiên cứu, xây dựng quy trình cung cấp thông tin đơn giản, ngắn gọn và hiệu quả. Trên thực tế, nhóm đối tượng yếu thế có những hạn chế nhất định trong việc hiểu các quy định của pháp luật, do đó, cần nghiên cứu xây dựng một quy trình cung cấp thông tin nhanh chóng, đơn giản, hợp lý. Việc quy định thông tin được cung cấp nhanh chóng, đúng thời hạn là một yêu cầu quan trọng, bởi sự trì hoãn cung cấp thông tin có khả năng gây ra tổn thất đến lợi ích của nhóm đối tượng yếu thế khi có yêu cầu. Việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội sẽ góp phần tăng lòng tin của họ đối với cơ quan nhà nước nói chung nhưng đồng thời, điều này cũng thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước với chủ thể đặc biệt này trong xã hội. Việc nhóm đối tượng yếu thế được tiếp cận đầy đủ các nguồn thông tin sẽ giúp họ chủ động hơn trong quá trình tham gia các hoạt động của xã hội, đây cũng là cơ sở để họ đóng góp, xây dựng và phát triển đất nước.
Việc ban hành và thực hiện Đề án “Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân” được Bộ Tư pháp xác định sẽ là một trong những giải pháp quan trọng để góp phần bổ sung, bổ trợ cho các chương trình, đề án về PBGDPL đang được các bộ, ngành thực hiện, qua đó hướng đến mục tiêu cao nhất nhằm tạo điều kiện tối đa cho người dân tiếp cận pháp luật và nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật. Đề án xác định các giải pháp chủ yếu như hoàn thiện thể chế, chính sách, cơ chế bảo đảm, hỗ trợ nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của người dân. Trong đó tập trung nghiên cứu, đề xuất, hoàn thiện các quy định pháp luật về PBGDPL, hòa giải ở cơ sở, tiếp cận thông tin, luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, các thiết chế bổ trợ khác; hoàn thiện quy định pháp luật nhằm nâng cấp và đổi mới hoạt động của Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật bảo đảm đồng bộ, thống nhất, hỗ trợ người dân tăng cường tiếp cận pháp luật được dễ dàng, thuận tiện. Cùng đó, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các thiết chế bảo đảm, hỗ trợ, nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của người dân. Trong đó tập trung vào việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực của các cơ quan và cán bộ, công chức trong hoạt động cung cấp thông tin, PBGDPL, tiếp công dân, đối thoại, tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính, khiếu nại, tố cáo, thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn… Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức hành nghề bổ trợ tư pháp trong hỗ trợ người dân tiếp cận pháp luật. Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật cho người dân, gồm có năng lực tiếp cận thông tin pháp luật và năng lực sử dụng quyền, tự bảo vệ quyền. Bên cạnh đó, tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật cho nhóm đặc thù, yếu thế (gồm 06 nhóm đối tượng theo quy định của Luật PBGDPL năm 2012). Đề án cũng giao trách nhiệm cho các bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và địa phương gồm Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thông tin đại chúng, báo chí, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Trong khoảng 20 năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, quyền tiếp cận thông tin cũng ngày càng phát triển và trở thành cơ sở của nền dân chủ, là công cụ hữu hiệu cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Nếu như năm 1990 mới chỉ có 13 quốc gia trên thế giới ban hành Luật Tiếp cận thông tin, thì đến năm 2009, có 86 quốc gia ban hành Luật Tiếp cận thông tin và hiện nay đã có khoảng 100 quốc gia ban hành Luật này. Theo Tony Mendel, chuyên gia quốc tế về quyền tiếp cận thông tin thì xu hướng ngày càng có nhiều luật về tự do thông tin được ban hành bởi quan điểm phổ biến trên thế giới hiện nay là các cơ quan công quyền nắm giữ thông tin không phải cho chính bản thân họ mà là vì lợi ích công cộng.