Nhu cầu tư vấn và hỗ trợ, trợ giúp pháp lý về hôn nhân gia đình, bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình
Sign In

Nhu cầu tư vấn và hỗ trợ, trợ giúp pháp lý về hôn nhân gia đình, bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình

Năm xã dân tộc thiểu số miền núi huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy thuộc tỉnh Quảng Bình là nơi sinh sống của 12.676 người, có 74% là đồng bào Vân Kiều, thuộc nhóm xã đặc biệt khó khăn có hơn 60% là hộ nghèo và cận nghèo. Với truyền thống phụ hệ, người phụ nữ DT-TS chịu nhiều hình thức bất bình đẳng về giới trong đời sống hôn nhân và gia đình, chịu nhiều hình thức bạo lực gia đình. Phụ nữ không tiếp cận được thông tin pháp luật về quyền được bảo vệ bằng Luật Hôn nhân và gia đình, luật bình đẳng giới và luật phòng chống bạo lực gia đình. Họ không được Hỗ trợ pháp lý phù hợp kể cả quá trình tư pháp công bằng khi có việc giải quyết ở tòa án do những rào cản của phụ nữ về địa lý, ngôn ngữ, mặc cảm giới và tập tục cũng như năng lực hiện tại của ngành tư pháp địa phương. Những rào cản này là nguyên nhân khiến phụ nữ dân tộc thiểu số không được hưởng đầy đủ các quyền của mình và các kết quả của thành tựu đổi mới kinh tế xã hội.
Năm 2019, RDPR đã đề xuất dự án “Thúc đẩy tiếp cận công lý về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình cùng cộng đồng người nghèo và dân tộc thiểu số tại Quảng Bình” là một trong 14 sáng kiến tư pháp được Quỹ JIFF tài trợ lần thứ nhất. Quỹ Thúc đẩy Sáng kiến Tư pháp (Quỹ JIFF) là một trong hai hợp phần của Chương trình “Tăng cường Pháp luật và Tư pháp tại Việt Nam”, gọi tắt là “Chương trình EU JULE” là một nỗ lực của EU nhằm hỗ trợ Việt Nam thu hẹp khoảng cách giới với chủ đề bình đẳng giới và gia đình. Dự án góp phần thúc đẩy tiếp cận công lý, giảm thiểu các vụ bạo lực trên cơ sở giới và vụ việc vi phạm luật hôn nhân gia đình với phụ nữ dân tộc thiểu số tại tỉnh Quảng Bình. Vùng Dự án gồm 5 xã là xã Trường Sơn, Trường Xuân huyện Quảng Ninh và xã Ngân Thủy, Kim Thủy và Lâm Thủy huyện Lệ Thủy.
Hoạt động Khảo sát nhu cầu Hỗ trợ pháp lý một trong chuỗi hoạt động trọng điểm của Dự án thực hiện trong tháng 12/2019. Đây là cuộc khảo sát thực hiện nhằm xác định nhu cầu và thực hiện đăng Hỗ trợ pháp lý và tư vấn pháp lý cho cộng đồng tại 5 xã dự án ở hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình. Kết quả số người vừa tham gia khảo sát sẽ vừa đăng kí và được đưa vào danh sách tổ chức các hoạt động Hỗ trợ pháp lý cho các thời tiếp theo của dự án.
GHI NHẬN VỀ NHU CẦU HỖ TRỢ PHÁP LÝ
Mức độ tiếp cận tư vấn và Hỗ trợ pháp lý
Cuộc khảo sát đã thực hiện điều tra để xác định mức độ người dân đã được tư vấn và Hỗ trợ pháp lý như thế nào liên quan đến bình đẳng giới, hôn nhân gia đình và bạo lực gia đình. Khả năng tiếp cận theo các mức độ như: một lần; vài lần; chưa được Hỗ trợ pháp lý và không nhớ.
Kết quả điều tra cho thấy, nhiều người chưa được Hỗ trợ pháp lý về luật bình đẳng giới, luật hôn nhân và gia đình, luật phòng chống bạo lực gia đình theo tỷ lệ lần lượt 64,2; 61,0 và 64,8%, khoảng 20% không xác định đã được tư vấn hay Hỗ trợ pháp lý chưa, còn lại một số đã được tư vấn và Hỗ trợ pháp lý một lần hoặc vài lần.
Bảng  7. Mức độ tiếp cận tư vấn luật về BĐG, HNGĐ, BLGĐ
  Bình đẳng giới Hôn nhân gia đình  BLGĐ
Mức độ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ
Một lần 36 7,2 52 10,4 35 7,0
Vài lần 39 7,8 40 8,0 35 7,0
Không tham gia 321 64,2 305 61,0 324 64,8
Không nhớ 104 20,8 103 20,6 106 21,2
Total 500 100,0 500 100,0 500 100,0
 
Theo phỏng vấn sâu cán bộ xã Lâm Thủy cho biết việc tư vấn pháp luật cho người dân chủ yếu thông qua các trưởng bản. Nhưng năng lực của các trưởng bản rất hạn chế, không có kiến thức pháp luật, mặc dù họ được người dân tin tưởng.
Từ một ý kiến khác của lãnh đạo xã Trường Sơn cho biết: “UBND xã cũng đã phối hợp với các ban ngành để tổ chức tuyên truyền PBGDPL, phối hợp với Đồn biên phòng, Trung tâm TGPL tỉnh chỉ tổ chức gói gọn trong một buổi, việc mở rộng địa bàn hơn một chút và đi sâu hơn một chút ở các địa bàn xa thì không thực hiện được nên người dân không được tiếp cận để hỗ trợ tư vấn pháp luật. Vấn đề HNGD trong những năm qua thì dự án Plan cũng đã tham gia nhưng chỉ tập trung sâu về trẻ em và giáo dục về nội dung tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống còn những việc khác không xoáy sâu. Địa bàn hẹp chỉ gói gọn những bản trung tâm, lân cận những bản xa thì cũng chịu”.
4.2. Những vấn đề của gia đình gặp phải và cần Hỗ trợ pháp lý
Khảo sát đã tiến hành xác định những vấn đề gia đình gặp phải liên quan đến luật bình đẳng giới, hôn nhân gia đình và bạo lực gia đình.
Về hôn nhân gia đình: Nội dung các vấn đề được đề cập trong khảo sát gồm thủ tục ly hôn; chia tài sản chung sau ly hôn; tặng cho tài sản về quyền sử dụng đất; và phân chia tài sản thừa kế.
Kết quả cho thấy mức độ từ 12% đến 21% phiếu trả lời có những vấn đề vướng mắc liên quan tới luật hôn nhân gia đình. Trong đó thấp nhất là về vấn đề phân chia tài sản thừa kế và mức cao nhất là tặng cho tài sản về quyền sử dụng đất.
Bảng  8. Vấn đề cần TGPL liên quan Luật HNGĐ
Vấn đề Thủ tục ly hôn Chia TS chung sau ly hôn Tăng cho tài sản là QSDĐ Phân chia tài sản thừa kế
Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ
73 14,6 74 14,8 105 21,0 60 12,0
Không 427 85,4 426 85,2 395 79,0 440 88,0
Total 500 100,0 500 100,0 500 100,0 500 100,0
 
Các vấn đề này đều xảy ra ở các bản và ở các xã dự án, tuy nhiên cũng có những sự khác biệt về mức độ nghiêm trọng xảy ra ở các thôn bản và giữa các xã.
Qua thảo luận nhóm bản Đá Chát xã Trường Sơn cho thấy thủ tục đăng kí kết hôn là vấn đề vướng mắc nhiều năm nhưng chưa được giải quyết. Theo cán bộ bản và xã cho thấy nhiều gia đình đã sống với nhau nhiều năm và đã có con rồi nhưng chưa có giấy đăng kí kết hôn. Điều này có thể sẽ gặp khó khăn khi làm giấy chứng nhận đất đai, phân chia tài sản sau khi ly hôn hoặc đăng kí cho giấy khai sinh cho con cái.
Tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống vẫn xảy ra ở địa phương. Như kết quả thảo luận ở bản Tân Ly cho thấy Có 1-2 trường hợp/năm và đến khi sinh con làm giấy khai sinh không được thì cán bộ hộ tịch mới nắm bắt được. Họ vẫn cho biết vấn đề tảo hôn gây nhiều hệ lụy như thiếu kinh nghiệm trong việc chăm con cái, sức khỏe chưa phát triển toàn diện… nhưng vẫn còn xảy ra và chưa được hạn chế. Tại xã Lâm Thủy tình trạng hôn nhân cận huyết thống còn xảy ra 1 số nơi như bản Xà Khía, E Bu hậu quả con cái sinh ra bị tật nguyền làm suy thoái nòi giống.
Một trường hợp khác là anh Hồ Văn Phúc, sinh năm 1984, kết hôn với chị Hồ Thị Bông, sinh năm 1986 tại bản Đá Chát, Trường Sơn, Quảng Ninh, Quảng Bình, kể: “Anh chị là người dân tộc Vân Kiều thuộc hộ nghèo, sinh con ra bị tàn tật và cuộc sống ngày càng có khó khăn hơn. Anh và chị là con cậu lấy con cô, gia đình đã có sự ngăn cản và do không biết những hậu quả về việc kết hôn trái pháp luật và hậu quả như hôm nay và cũng vì hai người đã lỡ có con với nhau nên đành chấp nhận”.
Về bình đẳng giới: Cuộc khảo sát cũng đã đặt ra những vấn đề mà người dân có thể gặp phải như việc họp hành ở thôn bản do chồng tham gia; chồng quyết định các chi tiêu lớn; chồng quyết định lấy vợ chồng cho con cái; chồng ít giúp vợ việc chăm sóc con cái, việc nội trợ. Kết quả cho thấy còn 9,2% chồng thường đại diện để đi họp thôn; 14,6% việc chi tiêu lớn trong gia đình do chồng quyết định và có 17% cho rằng chồng ít giúp vợ việc chăm sóc con cái và nội trợ trong gia đình.
Bảng  9. Vấn đề cần TGPL về luật BĐG
Vấn đề Chồng đại diện họp thôn Chồng quyết định các chi tiêu lớn Chồng quyết định lấy vc cho con Chồng ít giúp vợ chăm sóc con
Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ
46 9,2 73 14,6 44 8,8 85 17,0
Không 454 90,8 427 85,4 456 91,2 415 83,0
Total 500 100,0 500 100,0 500 100,0 500 100,0
 
Qua kết quả thảo luận nhóm bản Đá Chát xã Trường Sơn cho thấy tình trạng bất bình đẳng ở địa phương đã có cải thiện hơn so với trước đây như là: vợ được đi chơi, ăn mặc đẹp, son phấn, làm đẹp;  Chồng tham gia làm việc nhà như nấu ăn, quét nhà, giặt giũ; Chồng chăm sóc con cái như cho con ăn, tắm rửa cho con; Vợ chồng cùng vác củi, khi con nhỏ thì vợ được làm việc nhẹ hơn chồng; Tham gia việc xã hội nhiều hơn ví dụ ngày lễ được tham gia ăn uống, nhảy múa, nghỉ ngơi cả ngày; Không phân biệt con trai, con gái trong gia đình. Tuy nhiên mọi người vẫn cho rằng vợ vẫn làm việc nhà nhiều hơn, chồng thường đi uống rượu và bỏ bê nhiều việc nhà, giao cho vợ làm hết. Theo kết quả khảo sát cho thấy có 7,4 ý kiến cho rằng còn tình trạng phân biệt con trai con gái và ít ưu tiên con gái hơn.
Về bạo lực gia đình trong quan hệ vợ chồng: Tình trạng bạo lực gia đình vẫn còn xảy ra ở địa phương, trong đó tình trạng bạo lực về thể xác và tinh thần số đông do người chồng gây ra. Về bạo lực thể xác có 63 ý kiến, chiếm 12,6% bị chồng hành hạ, đánh đập vợ. Có các trường hợp bạo lực tinh thần như xúc phạm danh dự nhân phẩm và cô lập, dọa dẫm gây lắng có 109 trường hợp, chiếm 21,8%.
Bảng  10. Vấn đề BLGĐ về tinh thần và thể chất
Vấn đề Chồng hành hạ, đánh đập vợ Chồng xúc phạm danh dự nhân phẩm Chồng cô lập, dọa dẫm gây lo lắng
  Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ
63 12,6 68 13,6 41 8,2
Không 437 87,4 432 86,4 459 91,8
Total 500 100,0 500 100,0 500 100,0
 
Như trường hợp chị Hồ Thị Lam, sinh năm 1963 kết hôn với anh Hồ Văn Nam, sinh năm 1960 ở bản Khe Sung xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy kể lại: “Hai vợ chồng chị đã chung sống với nhau 30 năm có 6 người con 3 người con lập gia đình ở xa còn 3 đứa nhỏ đang tuổi ăn học. Kể từ ngày lấy nhau đến nay chồng lúc nào cũng uống rượu, chửi bới, đánh đập đến sưng mặt mũi có khi chị phải chạy trốn ở bụi bờ sau vườn nửa ngày mới dám vào nhà nhưng vào rồi cũng bị đánh. Nhưng chị vẫn cố chịu đựng không dám nói chuyện này với ai vì nghĩ rằng đó là chuyện xấu của gia đình và sợ mọi người cười chê và chị chưa tin tưởng ai để nhờ được giúp đỡ”.
Bạo lực về tài chính cũng là vấn đề xảy ra nhiều đối với phụ nữ dân tộc Vân Kiều khi phong tục và quan niệm người chồng là trụ cột làm chủ về tài chính của gia đình và quyết định mọi thứ trong gia đình. Theo kết quả khảo sát, có 7,8-10% trường hợp có tình trạng đập phá tài sản, ép lấy tài sản riêng của vợ và ép vợ để lấy hết khoản thu nhập của vợ.
Bảng  11. Vấn đề BLGD về tài chính
Vấn đề Đập tài sản, ép lấy tài sản riêng của vợ Chồng ép vợ lấy hết khoản thu nhập của vợ
Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ
39 7,8 50 10,0
Không 461 92,2 450 90,0
Total 500 100,0 500 100,0
 
Bạo lực tài chính cũng gây ra những mâu thuẫn gia đình ở các xã dự án, như trường hợp ở bản Xà Khía, xã Lâm Thủy, huyện Lệ Thủy là chị Hồ Thị D, sinh năm 1970, đã kể lại: “Gia đình chị thuộc diện khó khăn, hộ nghèo của xã. Chị kết hôn với anh Hồ Văn K và đã có với nhau 2 đứa con. Trong quá trình chung sống 2 vợ chồng thường xuyên có mâu thuẫn về chi tiêu và những quyết định kinh tế trong gia đình. Vợ chồng chị làm thuê làm mướn cho người ta ai gọi gì làm đó và làm được đồng nào về chồng mua rượu uống hết. Con gái mới học đến lớp 10 thì không cho học kêu học chi rồi cũng lấy chồng. Chị D đã bỏ về nhà mẹ đẻ cùng với 2 con, chồng chị dọa sẽ đánh chị quay lại.
Về bạo lực gia đình trong quan hệ với con cái: Tình trạng bạo lực của cha mẹ với con cái cũng còn xảy ra ở các xã khảo sát. Một số hiện tượng bạo lực với con cái về thể chất và tinh thần như đánh đập, dọa nạt đuổi ra khỏi nhà hoặc cấm không cho đi chơi với bạn bè. Kết quả điều tra cho thấy có khoảng 15,4% còn tình trạng bố mẹ đánh đập con khi mắc lỗi; 10,8% dọa không cho ăn và đuổi ra khỏi nhà; và 14,6% cấm không cho chơi với bạn bè khi mắc lỗi.
Bảng  12. Hành vi bạo lực với con cái
Hành vi bạo lực Bố mẹ đánh đập con khi mắc lỗi Dọa không cho con ăn, đuổi ra khỏi nhà Cấm không cho chơi với bạn bè
Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ
Co 77 15,4 54 10,8 73 14,6
Khong 423 84,6 446 89,2 427 85,4
Total 500 100,0 500 100,0 500 100,0
 
Do tình trạng tảo hôn hoặc hôn nhân không có đăng ký kết cũng sẽ gây ra những hệ quả tới nhiều gia đình khi phải ly hôn và phân chia tài sản sau ly hôn. Theo như lời kể của già làng Hồ K, bản Đá Chát xã Trường Sơn cho biết ở trong bản có rất nhiều cặp vợ chồng chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn, rồi cũng sinh con và nhập hộ khẩu và làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bình thường. Nhưng trong các năm trở lại đây do có nhiều mâu thuẫn nên những cặp vợ chồng không đăng ký kết hôn khi muốn làm thủ tục ly hôn rất khó khăn, không có căn cứ bao nhiêu năm chung sống, có bao nhiêu tài sản  và rồi những đứa con chung không biết giải quyết như thế nào. Theo luật tục của người Bru Vân Kiều thì người vợ đó khi không còn chung sống với chồng thì họ ra đi tay trắng nên rất thiệt thòi với người phụ nữ.
Trong các vấn đề gặp phải như phân tích ở trên khi được khảo sát để xác định ưu tiên của người dân cần đến sự Hỗ trợ pháp lý, đặc biệt tập trung trong 3 lĩnh vực thuộc khuôn khổ hỗ trợ của dự án. Kết quả khảo sát cho thấy lĩnh vực về hôn nhân gia đình có 276 người, chiếm 55,2% cần đến sự tư vấn và Hỗ trợ pháp lý; tiếp theo là về lĩnh vực bình đẳng giới cần được tư vấn với 32,8% và 29,8% về lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình. Ngoài ra có khoảng 11,8% cần Hỗ trợ pháp lý về lĩnh vực khác, trong đó đa số liên quan tới giải quyết về pháp lý đất đai.
Bảng  13. Lựa chọn các luật liên quan để TGPL
Lựa chọn Hôn nhân gia đình Bình đẳng giới Bạo lực gia đình Khác
Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ
276 55,2 164 32,8 149 29,8 59 11,8
Không 224 44,8 336 67,2 351 70,2 441 88,2
Total 500 100,0 500 100,0 500 100,0 500 100,0
 
4.3. Tổ chức và cá nhân tư vấn và Hỗ trợ pháp lý
Ngoài những quy định của pháp luật về các thành phần tham gia tư vấn và Hỗ trợ pháp lý, đối với cộng đồng dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa việc thực hiện trợ giúp pháp luật hiệu quả hay không còn phụ thuộc người thực hiện nhiệm vụ tư vấn và Hỗ trợ pháp lý.
Qua khảo sát điều tra về mong muốn cũng như thói quen và hiểu biết của người dân cần người tư vấn và Hỗ trợ pháp lý khi bản thân gặp phải các vấn đề trong cuộc sống cho thấy người dân thích được tiếp xúc tư vấn riêng hơn là nhóm người tập thể, nhất là đối với các vấn đề thuộc riêng tư cá nhân và gia đình.
Nhóm người hỗ trợ tư vấn cá nhân được yêu thích gồm anh em ruột thịt, cha mẹ, họ hàng; trưởng thôn; cán bộ phụ nữ thôn. Đây là các thành viên được người dân tin tưởng để cần sự trợ giúp khi gặp khủng hoảng hay các vấn đề đối với gia đình.
Bảng  14. Nhóm cá nhân được cộng đồng cần TGPL cao
Mức độ cần trợ giúp Người ruột thịt, họ hàng Trưởng thôn Cán bộ phụ nữ thôn
Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ
Chắc hẳn 235 47,0 108 21,6 75 15,0
Có thể 145 29,0 134 26,8 119 23,8
Không khi nào 120 24,0 257 51,4 306 61,2
Total 500 100,0 500 100,0 500 100,0
 
Nhóm người có mức độ ảnh hưởng thấp, chiếm tỷ lệ thấp cần sự hỗ trợ khi người dân gặp sự cố hay khủng hoảng cá nhân gồm bạn thân, công an thôn, bí thư thôn, và cả cán bộ xã.
Bảng  15. Nhóm cá nhân được cộng đồng cần TGPL thấp
Mức độ cần TGPL Bạn thân Bí thư thôn Cán bộ phụ nữ xã Cán bộ tư pháp xã
Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ
Chắc hẳn 41 8,2 43 8,6 21 4,2 13 2,6
Có thể 198 39,6 108 21,6 65 13,0 88 17,6
Không khi nào 245 49,0 349 69,8 414 82,8 399 79,8
Total 500 100,0 500 100,0 500 100,0 500 100,0
Nhiều người dân cho rằng trước đây họ cũng không biết nhiều đến luật sư nhưng sau khi được tham gia một số cuộc tập huấn và được Hỗ trợ pháp lý do dự án đã tổ chức ở thôn bản nên họ rất muốn được luật sư Hỗ trợ pháp lý cho họ trong thời gian tới. Theo kết quả khảo sát cho thấy có 425 người trả lời, chiếm 85% họ muốn được luật sư tư vấn và Hỗ trợ pháp lý.
Bảng  16. Mức cần thiết có sự TGPL của luật sư
Mức độ cần thiết Luật sư
Mẫu Tỷ lệ
425 85,0
Không 75 15,0
Total 500 100,0
 
Câu chuyện của chị Hồ Thị Riêng sinh năm 1994 tại bản Km 14, Ngân Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình kể: “Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn Công (Thái Nguyên) đã có con chung được 11 tháng tuổi. Do trong quá trình chung sống chồng thường ghen tuông đánh đập, chửi bới chị và dẫn đến mâu thuẫn ngày càng lớn hơn khó được dung hòa nên chị muốn ly hôn. Trong thời điểm này chị không biết phải giải quyết như thế nào và cũng không biết hỏi ai vì anh chị có hộ khẩu thường trú tại 2 nơi khác nhau, con chị còn quá nhỏ nên chị không thể đi ra Thái Nguyên, và hiện tại anh Công lại làm việc ở một công ty có trụ sở tại Đồng Hới. Ngay thời điểm này Văn phòng LS Hồ Lý Hải đã thực hiện TGPL lưu động tại thôn bản theo chương trình của dự án RDPR và hướng dẫn cụ thể trường hợp của chị đồng thời trợ giúp thêm qua điện thoại (khi cần thiết). Sau khi được trợ giúp từ Vp Luật sư Hồ Lý Hải thì anh chị đã ly hôn  theo nguyện vọng và đứa con sống cùng với chị”. Chính nhờ một số hoạt động trợ giúp ban đầu khá thành công với nhiều trường hợp nên nhiều người dân rất muốn được luật sư Hỗ trợ pháp lý. Ngoài những nội dung về bình đẳng giới, hôn nhân gia đình còn một số lĩnh vực khác như đất đai cũng rất nhiều người dân quan tâm.
4.4. Các hình thức và địa điểm tư vấn phù hợp
Như các phân tích trên, các vấn đề xảy ra là hoàn cảnh riêng của mỗi người mỗi gia đình nên tâm lý người dân ngại chia sẻ với người ngoài và sợ người ngoài biết chuyện của gia đình mình nên giữ kín và tự chịu đựng, như việc vợ chồng đánh nhau, cãi cọ hoặc những tranh chấp trong gia đình. Do đó cần lựa chọn hình thức tư vấn và Hỗ trợ pháp lý phù hợp với từng đối tượng hoặc các nhóm đối tượng khác nhau và cả ở các địa điểm phù hợp khác nhau.
Một số hình thức tư vấn được đưa ra khảo sát như tư vấn qua hình thức gặp trực tiếp để nói chuyện khi có nhiều người; gặp riêng để nói chuyện; trao đổi khi họp thôn bản; nói chuyện qua điện thoại và mạng xã hội.
Kết quả điều tra cho thấy hình thức tư vấn khi có nhiều người có 198 ý kiến chiếm 39,6%, trường hợp này phù hợp với tư vấn lưu động ở cộng đồng cho một số chủ đề mà nhiều người cùng quan tâm như vấn đề bất bình đẳng giới, hôn nhân cận huyết thống, tảo hôn, đăng kí kết hôn và một số vấn đề liên quan khác như tranh chấp đất đai, phân chia đất đai. Hình thức gặp riêng để nói chuyện và tư vấn có 34,2%, thường là các trường hợp thuộc vấn đề riêng tư trong gia đình như chồng đánh vợ, chồng chiếm đoạt tài sản vợ, bạo lực tình dục. Có 18% trường hợp đồng ý tổ chức tư vấn pháp lý khi kết hợp họp thôn, thường thuộc các vấn đề có nhiều người trong cộng đồng cùng quan tâm. Hình thức ít người quan tâm nhất là tư vấn qua điện thoại và mạng xã hội, chỉ có 4,2% có đề nghị. Hình thức này cho thấy khó phù hợp với cộng đồng dân tộc thiểu số khi trong số họ nhiều người không có điện thoại, không có internet và gây tốn kém với họ.
Như vậy có thể thấy có 2 hình thức tư vấn phù hợp với nhiều người ở vùng dự án là hình thức tư vấn lưu động tại cộng đồng dân cư và hình thức tư vấn riêng cho từng đối tượng tại nhà. Còn hình thức tư vấn qua điện thoại ít hiệu quả với cộng đồng ở vùng sâu vùng xa.
Bảng  17. Hình thức Hỗ trợ pháp lý phù hợp
Hình thức TGPL Nói chuyện khi có nhiều người Gặp riêng Kết hợp khi họp thôn Qua điện thoại, fb
Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ
Phù hợp 198 39,6 171 34,2 90 18,0 21 4,2
Không phù hợp 302 60,4 328 65,6 409 81,8 479 95,8
Total 500 100,0 500 100,0 500 100,0 500 100,0
 
Cùng với hình thức tương ứng có các địa điểm phù hợp để thực hiện tư vấn hiệu quả. Qua điều tra cho thấy với 2 hình thức trên thì địa điểm tư vấn phù hợp với người dân chủ yếu là tại các địa điểm công cộng như hội trường, nhà văn hóa thôn và tư vấn tại nhà riêng cho từng trường hợp.
Bảng  18. Địa điểm tư vấn và Hỗ trợ pháp lý phù hợp
Địa điểm Tại nhà văn hóa thôn bản Nhóm hộ Nhà riêng Tại xã
  Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ Mẫu Tỷ lệ
Phù hợp 281 56,2 29 5,8 154 30,8 6 1,2
Không phù hợp 219 43,8 471 94,2 346 69,2 494 98,8
Total 500 100,0 500 100,0 500 100,0 500 100,0