Tuy nhiên, hoạt động xây dựng pháp luật dù đã đạt được nhiều thành tựu nhưng chưa phát huy được hết giá trị như mong muốn do một trong những nguyên nhân là công tác tổ chức thi hành pháp luật (TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT) chưa đạt được hiệu quả cao trong thực tiễn. Để khắc phục hạn chế này,
ngày 09/11/2022, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW). Nghị quyết số 27-NQ/TW đã đề ra những định hướng quan trọng trong việc đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với thực hiện pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả.
Trong giai đoạn hiện nay, việc bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là yêu cầu bức thiết đặt ra. Nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra từ thực tiễn thi hành pháp luật, góp phần thực hiện chuyển hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước trong công tác xây dựng và TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT, ngày 12/5/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP kèm theo
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Theo đó, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án “Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật giai đoạn 2025 - 2030”.
Ngày 22/5/2023, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT THỜI GIAN QUA
2.1. Chủ trương của Đảng về công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT
Công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT có ý nghĩa then chốt trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước. Từ kết quả tổng kết thực tiễn công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT trên phạm vi cả nước, Đảng ta đã có những nhận định, đánh giá, ghi nhận những thành tựu đạt được về công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT như sau: “...
khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế. Công tác phổ biến và giáo dục pháp luật được tăng cường đáng kể. Những tiến bộ đó đã góp phần thể chế hoá đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước”
[1].
Đồng thời, Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế của công tác này, cụ thể là:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật nước ta còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống; thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu
[2].
Thứ hai, ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức và nhân dân còn nhiều hạn chế
[3]; ý thức chấp hành pháp luật trong một bộ phận cán bộ và nhân dân còn thấp
[4].
Thứ ba, năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu, năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu
[5]; năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, nghị quyết còn hạn chế, năng lực tổ chức thực hiện của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, làm cho pháp luật, nghị quyết chậm được thực hiện và hiệu quả thấp
[6].
Thứ tư, việc tổ chức thi hành pháp luật còn thiếu chặt chẽ
[7]; tổ chức thực hiện pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa nghiêm
[8]; tổ chức thực hiện vẫn là một khâu yếu
[9]; việc tổ chức thi hành pháp luật ở một số nơi còn lúng túng, hiệu quả chưa cao
[10]; cơ chế thực thi và phối kết hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật còn kém hiệu lực, hiệu quả
[11]; chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục
[12]; sự phối hợp giữa công tác xây dựng pháp luật, phổ biến giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật chưa chặt chẽ
[13]; giám sát, phản biện xã hội trong xây dựng và thực thi pháp luật, chính sách hiệu quả chưa cao
[14]; công tác tổ chức thi hành pháp luật là khâu yếu trong thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW; việc tổ chức thực hành pháp luật có lúc, có việc còn lỏng lẻo, tính răn đe, giáo dục chưa cao
[15].
Thứ năm, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm, kỷ luật, kỷ cương không nghiêm
[16]; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm
[17]; chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm, kỷ cương phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ
[18]; thực thi pháp luật chưa hiệu quả, chấp hành pháp luật có nơi chưa nghiêm, việc giám sát chưa chặt chẽ, chi phí tuân thủ pháp luật còn cao
[19].
Thứ sáu, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe
[20].
Có thể nhận thấy, tình trạng pháp luật không được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất, triệt để đã làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tác động xấu đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Trên cơ sở những tồn tại, hạn chế nêu trên để đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đề ra chủ trương, định hướng quan trọng để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội.
Trong giai đoạn sau đổi mới, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW) đặt ra mục tiêu đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật, trong đó, xác định việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
Tại Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW đã chỉ rõ:
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải gắn với tổ chức thi hành pháp luật, củng cố các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật vừa là công cụ quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật.
Để thực hiện chủ trương nêu trên, ngày 11/11/2016, Ban Cán sự Đảng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch số 1141-KH/BCSĐCP về việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, trong Kế hoạch đã giao Bộ Tư pháp chủ trì tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật; nâng cao năng lực phản ứng chính sách và các vấn đề mới phát sinh; nghiên cứu xây dựng luật về TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT, trong đó quy định sự gắn kết, sử dụng hiệu quả các công cụ phổ biến pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính và theo dõi thi hành pháp luật, thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT, củng cố các thiết chế thi hành pháp luật.
Tại các kỳ Đại hội XI, XII, Đảng đã xác định nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách và tập trung đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thể hiện sự nhất quán chủ trương của Đảng về TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT, theo đó, Đảng tiếp tục xác định: “
Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm luật;...”.
2.2. Thể chế pháp luật về TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT
Thứ nhất, khoản 1 Điều 96 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (Hiến pháp năm 2013) quy định Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn: “
Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước”.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 6 Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi, bổ sung năm 2019)
quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật như sau:
(i) Ban hành kịp thời và đầy đủ các văn bản pháp luật để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước và để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và của chính quyền địa phương; kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái Hiến pháp và pháp luật.
(ii) Quyết định các biện pháp để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; chỉ đạo triển khai và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, nghị định, chương trình công tác của Chính phủ.
(iii) Lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, nhân lực và các nguồn lực khác để thi hành Hiến pháp và pháp luật; thống nhất quản lý công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, bồi thường nhà nước, thi hành án.
(iv) Tổng hợp đánh giá tình hình thi hành Hiến pháp, pháp luật và báo cáo với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, Điều 98 Hiến pháp năm 2013 quy định Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ “
lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật”. Khoản 1 Điều 28 Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã quy định cụ thể hoá quy định của Hiến pháp năm 2013 về nhiệm vụ lãnh đạo việc xây dựng chính sách và TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT của Thủ tướng Chính phủ.
Thứ ba, khoản 1 Điều
99 Hiến pháp năm 2013 và Điều 32 Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định:
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.
Thứ tư, chính quyền địa phương trong TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT.
(i) Khoản 1 Điều 112 Hiến pháp năm 2013 quy định: “
Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương;...”.
Khoản 1 Điều 17, khoản 1 Điều 24, khoản 1 Điều 31, khoản 1 Điều 38, khoản 1 Điều 45, khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 59 và khoản 1 Điều 66 Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định
chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính có nhiệm vụ, quyền hạn:
Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương/huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương/xã, phường, thị trấn.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, khoản 1 Điều 19, khoản 1 Điều 26, Điều 33, khoản 1 Điều 40, Điều 47, khoản 1 Điều 54, Điều 61, Điều 68 Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
/huyện, quận
, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương/xã, phường, thị trấn trong tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật.
(ii) Khoản 2 Điều 114 Hiến pháp năm 2013 quy định: “
Ủy ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương”.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, khoản 6 Điều 21, khoản 4 Điều 28, khoản 1 Điều 42, khoản 3 Điều 49, khoản 1 Điều 56 Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương/huyện, quận
, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương trong tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật
Khoản 3 Điều 22, khoản 3 Điều 29, khoản 2 Điều 36, khoản 1 Điều 43, khoản 1 Điều 50, khoản 1 Điều 57, khoản 1 Điều 64, khoản 1 Điều 71 Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương/
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương/xã, phường trong việc lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ thi hành Hiến pháp và pháp luật.
Thứ năm, quy định về TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT trong các văn bản dưới luật. Hiện nay, có rất ít văn bản dưới luật quy định trực tiếp về TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT. Trong các Nghị định, Thông tư… thường chỉ có quy định mang tính nguyên tắc về trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành văn bản sau khi có hiệu lực, chẳng hạn như quy định “
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này” hoặc ban hành văn bản có tính chỉ đạo thực hiện tổ chức thi hành một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng
[21].
Nghiên cứu cho thấy, trong các văn bản dưới luật mới chỉ có Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật - Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP) là có quy định về việc tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật nói chung (không mang tính đơn lẻ như các văn bản về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật đã nêu ở trên). Theo đó, Điều 183 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP quy định về trách nhiệm tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật, với yêu cầu văn bản quy phạm pháp luật phải được tổ chức thi hành kịp thời, hiệu quả. Đối với luật, pháp lệnh, nội dung tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật tập trung vào các vấn đề sau:
(i) Xây dựng kế hoạch tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật.
(ii) Tổ chức thực hiện chính sách, biện pháp trong văn bản quy phạm pháp luật.
(iii) Phổ biến văn bản quy phạm pháp luật.
(iv) Ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật (nếu có).
(v) Tập huấn văn bản quy phạm pháp luật.
(vi) Tổ chức tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức.
(vii) Bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí, tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực để triển khai thi hành văn bản quy phạm pháp luật.
(viii) Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật.
(ix) Sơ kết, tổng kết việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật.
(x) Báo cáo việc tổ chức triển khai thi hành văn bản quy phạm pháp luật và kiến nghị, xử lý vướng mắc trong việc tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật.
2.3. Tình hình thực hiện công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT trong thời gian gần đây
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “
Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội”
[22].
Từ năm 2005 đến năm 2020, tổng số văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã ban hành là 13.336 văn bản, trong đó, Chính phủ ban hành 1.952 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 1.107 quyết định, các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành 10.060 thông tư và thông tư liên tịch. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp đã ban hành hàng trăm nghìn văn bản, trong đó văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành là 55.691 văn bản, cấp huyện ban hành là 57.593 văn bản và cấp xã ban hành là 273.226 văn bản quy phạm các loại
[23]. Số lượng “nợ đọng” văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh giảm đáng kể, trong đó có năm Chính phủ không nợ ban hành văn bản quy định chi tiết, được Quốc hội ghi nhận. Công tác kiểm tra rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật được triển khai thường xuyên, định kỳ và theo chuyên đề. Để kịp thời triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, công tác rà soát, lập danh mục đề xuất văn bản quy phạm pháp luật cần bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong năm 2022, toàn ngành Tư pháp đã tập trung rà soát được 27.878 văn bản quy phạm pháp luật, kiến nghị xử lý (sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới) đối với 5.731 văn bản
[24]. Trong giai đoạn 2013 - 2020, các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã thực hiện 02 kỳ hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật thống nhất trong cả nước, (kỳ hệ thống hóa 31/12/2013 và kỳ hệ thống hóa 2014 - 2018). Thông qua hoạt động rà soát thường xuyên, rà soát theo chuyên đề, lĩnh vực, địa bàn,... đã phát hiện và đề xuất nhiều giải pháp hoàn thiện pháp luật. Công tác theo dõi thi hành pháp luật trong những nhăm gần đây được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo và các bộ, ngành, địa phương chú trọng triển khai, bảo đảm ngày càng gắn kết chặt chẽ với công tác PBGDPL, kiểm tra, xử lý văn bản, nhất là những văn bản có tác động trực tiếp, rộng rãi đến người dân và doanh nghiệp. Từ năm 2012-2022, cả nước đã thực hiện khoảng 1.600 đoàn kiểm tra công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Trong đó, Bộ Tư pháp đã thực hiện 20 Đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra công tác theo dõi thi hành pháp luật và kiểm tra, điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành tại 15 bộ, ngành và 40 địa phương trên phạm vi cả nước
[25]. Công tác kiểm tra của các Bộ, ngành, địa phương đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Qua theo dõi cho thấy, nhiều bộ, ngành đã chú trọng theo dõi các lĩnh vực gắn với đặc thù, trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội của lĩnh vực quản lý; nhiều địa phương đã có phản ứng chính sách kịp thời hơn đối với những vấn đề phát sinh trong thực tiễn điều hành phát triển kinh tế - xã hội.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được đẩy mạnh, có trọng tâm, trọng điểm, hướng về cơ sở; nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật đã bám sát thực tiễn, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật đa dạng, phong phú phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng, địa bàn. Đặc biệt, việc tổ chức Ngày Pháp luật đã trở thành sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng của đất nước và việc hưởng ứng Ngày Pháp luật đã trở thành hoạt động thường niên được các bộ, ngành, đoàn thể và địa phương triển khai sâu rộng, hiệu quả, tạo hiệu ứng tích cực, lan toả ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong toàn xã hội. Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng ngày càng nhanh chóng nhu cầu tiếp cận thông tin pháp luật của người dân. Tính từ năm 2016-2020, cả nước đã tổ chức trên 5,3 triệu cuộc tuyên truyền pháp luật trực tiếp; phát miễn phí hơn 297 triệu bản tài liệu tuyên truyền, PBGDPL; tiếp nhận, giải quyết tổng số 707.356 vụ việc hòa giải, trong đó có khoảng 80% số vụ việc được hòa giải thành
[26]. Năm 2022, cả nước đã tổ chức 549.263 cuộc tuyên truyền pháp luật trực tiếp; phát miễn phí hơn gần 62.5 triệu bản tài liệu tuyên tryền, PBGDPL
[27].
Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật tiếp tục được tăng cường, tập trung vào các lĩnh vực có nhiều dư luận về tiêu cực, tham nhũng; các vụ việc phức tạp được đẩy nhanh tiến độ thanh tra và được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc về tham nhũng, kinh tế đồng bộ, hiệu quả, tạo bước đột phá trong phát hiện, xử lý nghiêm sai phạm, có sức cảnh báo, răn đe mạnh mẽ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy Nhà nước, khẳng định quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước. Trong giai đoạn 2016-2020, Bộ Tư pháp đã tiến hành trên 270 cuộc thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch và đột xuất để giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm tra sau thanh tra
(tăng hơn 2 lần so với giai đoạn 2011-2015)[28].
2.4. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT còn một số hạn chế, bất cập sau đây:
Thứ nhất, việc TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT có nơi, có lúc còn chưa được quan tâm đúng mức, thiếu giải pháp đột phá nên hiệu quả thi hành pháp luật còn hạn chế.
Thứ hai, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, nhân dân chưa cao, tình hình vi phạm pháp luật, tranh chấp, khiếu kiện còn diễn biến phức tạp.
Thứ ba, việc gắn kết giữa xây dựng pháp luật và TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT trong một số lĩnh vực pháp luật chưa thực sự hiệu quả, chưa đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu thực tiễn. Một số bất cập trong các quy định của pháp luật đã phát hiện, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung. Việc tổng kết thực tiễn thi hành văn bàn quy phạm pháp luật trong một số trường hợp chưa được tiến hành kịp thời, hiệu quả.
Thứ tư, kết quả tổng hợp những phản ánh, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân về bất cập của các văn bản quy phạm pháp luật cho thấy, nhiều vướng mắc, bất cập xuẩt phát từ việc hiểu không đúng, chưa nắm vững nguyên tắc áp dụng pháp luật dẫn đến lúng túng, thậm chỉ áp dụng sai pháp luật.
Thứ năm, chi phí tuân thủ pháp luật nhìn chung còn cao.
Những hạn chế, bẩt cập này, có nguyên nhân khách quan là do đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế nên tình hình thực tiễn biến chuyển nhanh, phát sinh nhiều vấn đề mới, khó dự báo.
Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, như: Nhận thức của lãnh đạo một số cơ quan còn chưa thật sự đầy đủ về yêu cầu của công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT; việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật trong một số trường hợp chưa nghiêm; nguồn lực đầu tư cho công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT nhìn chung chưa tương xứng với tầm quan trọng, tính chất khó khăn, phức tạp của nhiệm vụ. Thể chế liên quan đến thi hành pháp luật chưa đầy đủ. Cơ chế đảm bảo để người dân giám sát thi hành pháp luật còn chưa thực sự phát huy hiệu quả trong thực tiễn. Các điều kiện đảm bảo thi hành pháp luật còn chưa đầy đủ, nhất là về tổ chức, bộ máy, biên chế, kinh phí và cơ chế phối hợp. Hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ pháp luật chưa thực sự sát với yêu cầu thực tiễn; cơ chế thu hút nguồn cán bộ, chuyên gia, cộng tác viên có chuyên môn cao có nhiều bất cập. Năng lực, trình độ, kinh nghiệm cùa một bộ phận công chức làm công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT tại các bộ, ngành, địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, nhất là tính chuyên nghiệp và các kỹ năng trong áp dụng pháp luật.
III. MỘT SỐ NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CỦA CÔNG TÁC TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Nhiệm vụ theo yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW
Nghị quyết số 27-NQ/TW đã xác định rõ mục tiêu cụ thể đến năm 2030 liên quan đến công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT, cụ thể là: “
Hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội. Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán…”; và nhiệm vụ, giải pháp thực hiện: “
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững”.
Nhiệm vụ cụ thể đối với công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT để thực hiện nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững theo yêu cầu của Nghị quyết 27-NQ/TW là: “
…Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với thực hiện pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả. Xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong tổ chức thi hành pháp luật. Hoàn thiện các quy định về giải thích pháp luật. Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật; tăng cường thi hành pháp luật trong các lĩnh vực quan trọng liên quan đến lợi ích thiết yếu của người dân; hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý kịp thời, hiệu quả kiến nghị, phản ánh của người dân, doanh nghiệp”.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT trong giai đoạn mới
3.2.1. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền về vị trí, vai trò của công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT, từ đó tạo chuyển biến căn bản trong nhận thức và hành động của đội ngũ lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, đội ngũ cán bộ, công chức trong quá trình tổ chức thực thi các quy định của pháp luật, thực hiện nhiệm vụ công vụ được giao. Các cấp ủy Đảng phải thường xuyên tiến hành xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện pháp luật trên địa bàn cấp mình, phải luôn xác định vai trò gương mẫu, tiên phong của đảng viên trong việc TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác hướng dẫn, chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc của cấp ủy Đảng đối với việc TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT tại địa phương để kịp thời giải quyết, xử lý các vấn đề phát sinh trong thực tiễn, đặc biệt đối với những vụ việc, vấn đề liên quan đến việc thi hành pháp luật nổi cộm, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
3.2.2. Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học về lý luận đối với những vấn đề trực tiếp liên quan đến TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT và đẩy mạnh hoàn thiện thể chế TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT
TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT hiệu quả là vấn đề quan trọng của bất kỳ một quốc gia nào. Để giải quyết những tồn tại trên thực tiễn, cần nghiên cứu, sớm xây dựng và triển khai Đề án “Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật giai đoạn 2025 - 2030”, đây sẽ là giải pháp vô cùng quan trọng nhằm tạo tiền đề pháp lý hóa, tạo cơ sở pháp lý cơ bản vững chắc để phát huy hiệu lực, hiệu quả TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn mới.
3.2.3. Tiếp tục kiện toàn và đổi mới về tổ chức, bộ máy, biên chế, tăng cường năng lực đội ngũ làm công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT
Trước yêu cầu của thực tiễn, các bộ, ngành ở trung ương cần bố trí, sắp xếp bảo đảm có cán bộ chuyên trách về tổ chức và theo dõi tình hình thi hành pháp luật tại Vụ Pháp chế; các địa phương cần thành lập Phòng Pháp chế tại các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo đúng quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế.
Trong thời gian này, khi Nghị định số 55/2011/NĐ-CP đang được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, các địa phương cần tổ chức thực hiện đầy đủ, nghiêm túc, có hiệu quả các nhiệm vụ theo Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 26/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT giai đoạn 2018 - 2022, trong đó, có nội dung về kiện toàn tổ chức pháp chế các bộ, ngành; bố trí biên chế pháp chế chuyên trách tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để thực hiện nhiệm vụ công tác pháp chế nói chung và làm đầu mối công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT nói riêng.
Xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT có năng lực chuyên môn và bản lĩnh, phẩm chất chính trị, nghề nghiệp vững vàng. Để thực hiện được mục tiêu này thì một trong những vấn đề có tính then chốt là phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn, nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng công chức làm công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT tại các bộ, ngành, địa phương. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có những chính sách thỏa đáng về cơ chế, chế độ ưu tiên, thu hút đối với những người làm công tác TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT. Đồng thời, cần có sự đầu tư đầy đủ, toàn diện về cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, tức là điều kiện cần và đủ trong TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT, tạo ra môi trường thuận lợi trong việc triển khai hoạt động TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT trong thực tiễn.
3.2.4. Đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT
Thứ nhất, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: Cần thường xuyên thực hiện tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, làm cho họ hiểu rõ được quyền hạn, trách nhiệm của mình trên nguyên tắc thực hiện công vụ theo đúng quy định của pháp luật, chỉ được làm những gì pháp luật quy định. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao trình độ, kiến thức pháp lý cho mọi tầng lớp nhân dân, thu hút người dân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh: (i) Nghiêm túc chấp hành kỷ cương, kỷ luật hành chính trong xây dựng văn bản quy định chi tiết, thực hiện nghiêm các quy định của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết như yêu cầu về việc trình dự thảo văn bản quy định chi tiết kèm theo dự án luật, pháp lệnh. (ii) Đề cao vai trò, tinh thần trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, lấy kết quả thực hiện công tác này là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ theo năm công tác và theo nhiệm kỳ. (iii) Phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh, ban hành văn bản quy định chi tiết, nhất là giữa cơ quan chủ trì soạn thảo luật, pháp lệnh và cơ quan soạn thảo văn bản quy định chi tiết trong quá trình xây dựng, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh liên quan đến nội dung giao quy định chi tiết.
Thứ ba, đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật: (i) Đổi mới nội dung theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật theo hướng nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc phương pháp đánh giá dựa trên kết quả của các nước tiên tiến trên thế giới đang áp dụng. Theo đó, cần sớm nghiên cứu xây dựng hệ thống các tiêu chí và phương pháp theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật dựa trên kết quả với các tiêu chí, nội dung cụ thể và các phương pháp đánh giá chính xác, khoa học; (ii) Xây dựng, phát triển mô hình cộng tác viên trong lĩnh vực theo dõi tình hình thi hành pháp luật; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng, kiểm tra và tổ chức, theo dõi tình hình thi hành pháp luật; (iii) Quy định cụ thể, rõ ràng về thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật; (v) Tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý thông tin về tình hình thi hành pháp luật, từ đó kịp thời đề xuất, kiến nghị các giải pháp để giải quyết, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cũng như chấn chỉnh các sai phạm, bảo đảm việc thực thi pháp luật, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT; (vi) Tăng cường bố trí nguồn lực về kinh phí để hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật được triển khai đồng bộ, toàn diện, đáp ứng mục tiêu đặt ra, Nhà nước cần quy định đầy đủ, rõ ràng và cụ thể các mục chi và định mức chi cho công tác này, qua đó các bộ, ngành và địa phương mới có căn cứ, cơ sở lập dự toán triển khai các hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật hằng năm.
Thứ tư, xây dựng, hoàn thiện cơ chế giải trình minh bạch, kịp thời trong TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT: Quy định rõ trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong quá trình TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT, bảo đảm tính minh bạch kịp thời trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Trong đó, xác lập cơ chế về trách nhiệm giải trình trước nhân dân và trách nhiệm giải trình hành chính, bao gồm trách nhiệm giải trình trước cơ quan quản lý cấp trên và người có thẩm quyền trong cơ quan đó; trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước với các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước; quy định các hình thức xử lý kỷ luật áp dụng đối với cơ quan nhà nước, người đứng đầu cơ quan nhà nước thực hiện không đúng, không thực hiện nhiệm vụ được giao trong TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT.
Thứ năm, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT: Đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện Chính phủ điện tử, xác lập đầy đủ mối quan hệ tương tác giữa người dân và Chính phủ thông qua phương tiện công nghệ hiện đại, qua đó, tăng cường năng lực làm việc hiệu lực, hiệu quả, minh bạch để cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp. Xây dựng Đề án về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT, bảo đảm công nghệ thông tin phát huy tối đa vai trò của mình trong hoạt động quản lý nhà nước về TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT.
3.2.5. Tăng cường năng lực phản ứng chính sách trong quá trình TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT, đặc biệt là việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân và doanh nghiệp về tình hình thi hành pháp luật
Thiết lập các hình thức đa dạng, linh hoạt trong tiếp nhận kiến nghị, phản ánh của doanh nghiệp trong thực thi pháp luật, trong đó, chú trọng việc ghi nhận, xử lý công khai, công bằng, nhanh chóng, khách quan, đúng thẩm quyền; chủ động tổ chức đối thoại với doanh nghiệp về các quy định của pháp luật về đầu tư kinh doanh để có các biện pháp chỉ đạo, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc mà doanh nghiệp phản ánh, kiến nghị; trường hợp không giải quyết được cũng cần giải thích, thông tin trả lời rõ ràng, minh bạch. Thiết lập kênh thông tin đa dạng, thuận lợi, bảo mật để người dân, doanh nghiệp phát huy tính tự giác, kịp thời khiếu nại, tố cáo về những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi pháp luật.
Tăng cường chỉ đạo việc tổ chức tiếp nhận và tập trung giải quyết các kiến nghị, phản ánh, khiếu nại của người dân và doanh nghiệp kịp thời, đúng quy định pháp luật. Người đứng đầu các cấp chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước các cấp phải dành thời gian tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp, giải quyết hiệu quả các vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền.
3.2.6. Tiếp tục hoàn thiện chế độ công chức, công vụ theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp và đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, thực hiện kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh cán bộ, công chức vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi công vụ
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm pháp lý đối với cán bộ, công chức phát sinh trong quá trình TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước; xây dựng và ban hành kế hoạch theo dõi, kiểm tra, giám sát và xử lý công chức, viên chức các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình thực thi công vụ, tiếp nhận và giải quyết yêu cầu của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
3.2.7. Đổi mới về cơ chế phối hợp trong hoạt động TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT
Với thể chế pháp luật hiện hành, cơ chế phối hợp trong hoạt động TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT mới chỉ tập trung điều chỉnh quan hệ phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước (Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp), mà chưa thiết lập được cơ chế phối hợp ở tầm vĩ mô giữa các thiết chế trong hệ thống chính trị. Do vậy, Chính phủ với vai trò là chủ thể TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT cần thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ với các chủ thể khác trong hệ thống chính trị như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội khác trong quá trình triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT./.
[1] Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
[2] Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
[3] Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
[4] Chỉ thị số 43/CT-TTg ngày 11/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật.
[5] Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, Quyển I, tr.94.
[7] Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
[8] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
[9] Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
[10] Chỉ thị số 43/CT-TTg ngày 11/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật.
[11] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, Quyển I, tr.94.
[13] Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, Quyển II, tr.75.
[15] Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
[16] Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
[17] Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, Quyển I, tr.89-90.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, Quyển II, tr.76.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, Quyển I, tr.89-90.
[21] Ví dụ như: Năm 1985, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã Chỉ thị số 254-CT ngày 13/8/1985 về việc “
tổ chức thi hành Bộ luật hình sự”; năm 1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Chỉ thị số 269/CT ngày 19/10/1988 về việc “
tổ chức thi hành Bộ luật tố tụng hình sự”; năm 1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Chỉ thị số 74-CT ngày 13/3/1990 về việc “
tổ chức thi hành Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính”; năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 15/2000/CT-TTg ngày 9/8/2000 về việc “
tổ chức thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 14/3/2017 “
về việc triển khai thi hành Luật Tiếp cận thông tin”.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, Quyển 1 tr.179.
[23] Báo cáo số 01/BC-BTP của Bộ Tư pháp tổng kết công tác tư pháp năm 2020, nhiệm kỳ 2016 - 2020; định hướng nhiệm kỳ 2021 - 2025 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2021.
[24] Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2023 của Bộ Tư pháp tổng kết công tác tư pháp năm 2022 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2023.
[25] Báo cáo số 41/BC-BTP ngày 30/12/2022 của Bộ Tư pháp tổng kết 10 năm thi hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
[26] Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2021 của Bộ Tư pháp tổng kết công tác tư pháp năm 2020, nhiệm kỳ 2016 - 2020; định hướng nhiệm kỳ 2021 - 2025 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2021.
[27] Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2023 của Bộ Tư pháp tổng kết công tác tư pháp năm 2022 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2023.
[28] Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2021 của Bộ Tư pháp tổng kết công tác tư pháp năm 2020, nhiệm kỳ 2016 - 2020; định hướng nhiệm kỳ 2021 - 2025 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2021.