1. Chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về nâng cao nhận thức và khả năng tiếp cận pháp luật của người dân
Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội Đảng XIII đã khẳng định:
“…trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng";
“Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân…”
[1]. Có thể khẳng định, trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam và bảo đảm mục tiêu cam kết
“không để ai bị bỏ lại phía sau”, việc tăng cường nhận thức và khả năng tiếp cận pháp luật của người dân là một phần không thể thiếu để hướng tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người dân nói chung và các nhóm đặc thù, yếu thế nói riêng… Chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiều chương trình, đề án do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành đã hướng tới người dân và các nhóm đặc thù, yếu thế như: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030, Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/06/2020 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Nghị quyết số 16/2021/QH15 ngày 27/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội 5 năm 2021-2025 đề ra mục tiêu về “…
Từng bước xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo đảm cuộc sống bình yên và hạnh phúc của Nhân dân, tinh thần xuyên suốt là“không để ai bị bỏ lại phía sau”[2]...; Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ
“đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật”,“Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của công dân và doanh nghiệp”…
Đặc biệt, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới khẳng định quan điểm:
Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước. Đến năm 2030, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội. Một trong những nhiệm vụ và giải pháp quan trọng được xác định tại Nghị quyết là:
Tiếp tục đổi mới công tác PBGDPL. Xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật…. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về Hiến pháp và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam…
Để góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Nhà nước ta luôn coi trọng việc tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với các thông tin, chính sách, pháp luật, để từ đó thực hiện các quyền, lợi ích trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp năm 2013 đã quy định quyền tiếp cận thông tin nói chung và thông tin pháp luật nói riêng của công dân, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Tiếp cận thông tin đã quy định quyền thông tin về pháp luật, quyền tiếp cận thông tin cũng như trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân. Nhà nước tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền, tiếp cận kịp thời, minh bạch, thuận lợi các chủ trương, chính sách, pháp luật, đặc biệt đối với các nhóm đặc thù, yếu thế, góp phần xây dựng một xã hội cởi mở hơn về thông tin và một Chính phủ công khai, minh bạch hơn, trách nhiệm giải trình cao hơn trong hoạt động quản lý, điều hành đất nước nhằm đưa chủ trương
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” từng bước đi vào cuộc sống.
Thời gian qua, đã có nhiều giải pháp được triển khai nhằm tăng cường, hỗ trợ hoạt động tiếp cận thông tin pháp luật của người dân như trong hoạt động xây dựng pháp luật, bên cạnh các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 407/QĐ-TTg ngày 30/3/2022 phê duyệt Đề án “
Tổ chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2022 – 2027” đã tạo thêm cơ sở pháp lý cho người dân được tiếp cận với những thông tin kể từ khi cơ quan nhà nước có ý định xây dựng luật cho đến khi luật được thông qua và có hiệu lực, bảo đảm phần nào quyền tiếp cận thông tin, tiếp cận pháp luật cho người dân trong suốt quy trình lập pháp. Điều này cho thấy, Nhà nước ta đã ngày càng mở rộng phạm vi thông tin, bảo đảm tốt hơn quyền tiếp cận thông tin, tiếp cận pháp luật của công dân và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền được thông tin của công dân. Ngày 11/8/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 977/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân”. Đề án được ban hành có ý nghĩa quan trọng, là giải pháp toàn diện, đột phá, thực hiện mục tiêu
"đổi mới nội dung, hình thức PBGDPL theo hướng lấy người dân làm trung tâm". Đề án ban hành nhằm thúc đẩy trách nhiệm của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; sự vào cuộc của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội và các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp trong công tác PBGDPL và vận động, phát huy sự chủ động, tích cực của Nhân dân trong tìm hiểu, nâng cao ý thức tôn trọng, chấp hành, tuân theo, sử dụng pháp luật trong cuộc sống, học tập và sản xuất, kinh doanh, từng bước hình thành văn hoá thượng tôn pháp luật trong xã hội.
2. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nhận thức và khả năng tiếp cận pháp luật của người dân
Thời gian qua, các cơ quan, đơn vị, chủ thể có thẩm quyền đã tích cực, chủ động thực hiện trách nhiệm và nhiệm vụ theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho người dân tiếp cận pháp luật. Trong hoạt động cung cấp thông tin, các cơ quan đã chú trọng thực hiện thường xuyên, kịp thời đáp ứng cơ bản nhu cầu của người dân và doanh nghiệp; cung cấp thông tin theo yêu cầu từng bước đi vào nền nếp; các điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện cung cấp thông tin được thực hiện
[3]. Công tác PBGDPL được đẩy mạnh, có trọng tâm, trọng điểm hơn, hướng về cơ sở; nội dung PBGDPL đã bám sát thực tiễn, hình thức PBGDPL đa dạng, phong phú phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng, địa bàn. Các thiết chế hành chính, tư pháp (tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý), tự quản cộng đồng (hòa giải ở cơ sở) từng bước được củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành, bảo vệ pháp luật, góp phần tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với pháp luật, thực hiện các quyền theo hướng thực chất, đúng quy định. Theo Báo cáo số 45/BC-BTP ngày 15/02/2023 của Bộ Tư pháp về tổng kết thực hiện Luật PBGDPL, nội dung PBGDPL có trọng tâm, trọng điểm, bám sát nhu cầu xã hội, nhiệm vụ chính trị của bộ, ngành, địa phương, phù hợp hơn với từng đối tượng, địa bàn. Hình thức PBGDPL đã được thực hiện đa dạng, phong phú, sáng tạo, thể hiện màu sắc, văn hóa của từng vùng miền đem lại hiệu quả thiết thực. Nguồn lực tài chính cũng như các chính sách hỗ trợ cho đội ngũ những người làm công tác PBGDPL từng bước được bảo đảm, so với giai đoạn trước khi có Luật đã có nhiều bước chuyển biến rõ nét. Việc huy động các nguồn lực tham gia công tác PBGDPL đã được chú trọng với nhiều phương thức và mô hình phong phú, linh hoạt. Nguồn nhân lực trong các cơ quan, thiết chế bảo đảm, hỗ trợ tiếp cận pháp luật, trong đó có luật sư, tư vấn viên pháp luật, trợ giúp viên pháp lý, báo cáo viên pháp luật, tuyền truyền viên pháp luật, hòa giải viên ở cơ sở đã phát triển về số lượng và từng bước nâng cao năng lực, góp phần không nhỏ trong việc hỗ trợ tiếp cận pháp luật và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và các đối tượng đặc thù…
[4].
Các chương trình, đề án được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành đã chú trọng các giải pháp, nhiệm vụ nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật cho người dân. Bên cạnh đó, người dân ngày càng quan tâm đến việc tiếp cận thông tin, pháp luật để phục vụ nhu cầu của bản thân và xã hội, nhất là trong các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến đời sống, công việc; bắt đầu hình thành thói quen tìm hiểu pháp luật để thực hiện, bảo vệ các quyền của mình. Một bộ phận người dân có kỹ năng tìm kiếm, khai thác, tra cứu, vận dụng, sử dụng pháp luật và mức độ sử dụng công nghệ thông tin của người dân ngày càng cao. Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật đã được xây dựng, giúp cho người dân tìm kiếm, tra cứu, khai thác thông tin, pháp luật được thuận tiện. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức đã có những chuyển biến tích cực về nhận thức, trách nhiệm tạo điều kiện cho người dân tiếp cận pháp luật trong quá trình tiếp nhận, giải quyết nhiệm vụ và công việc.
Tuy nhiên một bộ phận người dân, trong đó có các đối tượng đặc thù, trẻ em, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, trong đó có thông tin pháp luật cũng như việc sử dụng pháp luật để thực hiện quyền, bảo vệ lợi ích hợp pháp. Nhận thức của người dân về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của pháp luật đối với đời sống và việc hiểu biết, sử dụng pháp luật để thực hiện quyền, bảo vệ lợi ích còn hạn chế. Qua khảo sát tại một số địa phương, tỷ lệ người dân nhận thức về một số quyền cơ bản và một số nội dung pháp luật còn thấp, chỉ có 38,1% (Đồng Tháp) và 38,8% (Đắk Nông) đối tượng khảo sát nhận diện được quyền khiếu nại, tố cáo về những việc làm trái pháp luật của người khác; 46,4% (Đắk Nông) nhận diện được quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe. Đặc biệt, nhận thức đúng về độ tuổi trẻ em còn rất thấp (Đồng Tháp: 16,7%; Hà Giang: 18,4%; Hòa Bình: 21,2%; Đắk Nông: 22,8%; Kiên Giang: 24%; Thanh Hóa: 38,5%)
[5]. Một bộ phận không nhỏ người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nhận thức chưa đầy đủ về quyền tiếp cận thông tin, vẫn còn tâm lý e ngại khi cần yêu cầu cung cấp thông tin. Khả năng tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý của người dân cũng còn hạn chế nên số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý hằng năm vẫn còn thấp so với số người thuộc diện trợ giúp pháp lý
[6].
Bên cạnh đó chính sách, thể chế bảo đảm công khai, minh bạch để người dân tiếp cận pháp luật được thuận lợi, kịp thời, đầy đủ chưa bảo đảm thông suốt, thuận tiện. Hiện có hơn
20 chương trình, đề án đang triển khai hướng tới PBGDPL cho người dân, tuy nhiên chưa bao quát được mọi đối tượng trong xã hội, việc triển khai còn mang tính hình thức, chưa thực sự hiệu quả. Về nội dung, các đề án, chương trình mới tập trung thông tin, phổ biến về pháp luật mà chưa chú trọng nâng cao năng lực sử dụng pháp luật và tự bảo vệ quyền cho người dân. Công tác PBGDPL chưa thực sự được quan tâm đúng mức ở một số cơ quan, tổ chức. Ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số phục vụ nhu cầu tìm hiểu pháp luật và tạo điều kiện cho người dân tiếp cận pháp luật kịp thời, nhanh chóng chưa được đẩy mạnh. Việc đầu tư nguồn lực, cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị và nâng cao năng lực của các cơ quan, chủ thể nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của người dân chưa được quan tâm, nhất là ở vùng sâu, vùng xa hoặc vùng đặc biệt khó khăn. Trách nhiệm của nhiều cơ quan trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin pháp luật của người dân còn hạn chế dẫn đến người dân khó khăn trong tiếp cận thông tin.
3. Một số nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và khả năng tiếp cận pháp luật của người dân góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong thời gian tới
- Bám sát các định hướng nhiệm vụ, giải pháp triển khai thực hiện công tác PBGDPL nhằm nâng cao nhận thức và khả năng tiếp cận pháp luật của người dân theo tinh thần Kết luận số 80-KL/TW và Quyết định số 1521/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục tăng cường sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời của cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị đối với công tác PBGDPL; sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa các cơ quan tham gia công tác PBGDPL
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách, cơ chế giúp người dân thực hiện được quyền tiếp cận và làm chủ thông tin pháp luật một cách dễ nhất, nhanh, thuận tiện nhất ngay từ cấp cơ sở, nơi gần dân, hiểu dân nhất. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay cần được đặc biệt quan tâm, đẩy mạnh hơn nữa, xác định công tác PBGDPL là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, đặc biệt là chính quyền cấp cơ sở để người dân làm chủ thông tin pháp luật, tạo tiền đề trở thành người làm chủ xã hội dựa trên nguyên tắc nền tảng, bao trùm, đó là
“sống và làm việc theo pháp luật”.
- Tăng cường khảo sát, đánh giá thực trạng nhu cầu để triển khai công tác PBGDPL bảo đảm phù hợp với nhu cầu và từng đối tượng, địa bàn; tăng cường ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong việc tương tác thông tin pháp luật, đồng thời ưu tiên tập trung nguồn lực hỗ trợ việc tiếp cận thông tin pháp luật cho đối tượng yếu thế, đặc thù, trọng tâm là vận hành có hiệu quả Cổng Thông tin điện tử PBGDPL quốc gia để đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin pháp luật, PBGDPL của người dân, doanh nghiệp. Mở rộng các kênh thông tin pháp luật trên các nền tảng mạng xã hội, ứng dụng trên thiết bị di động
- Tiếp tục đổi mới nội dung PBGDPL, đa dạng hóa các hình thức, cách thức triển khai thực hiện bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với nhu cầu xã hội và từng nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực; bám sát các vấn đề dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư luận xã hội, các vấn đề nổi cộm; tăng cường các hoạt động đối thoại, giải đáp vướng mắc, bất cập từ thực tiễn thi hành pháp luật. Tổ chức thực hiện tốt công tác PBGDPL cho nhóm đối tượng đặc thù, yếu thế; phát triển mạng lưới các thiết chế hỗ trợ pháp luật cho người dân tại cơ sở. Đẩy mạnh việc truyền thông chính sách trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để tạo đồng thuận xã hội.
- Phát huy vai trò của Hội đồng phối hợp PBGDPL trong chỉ đạo, định hướng triển khai công tác PBGDPL, nhất là trong các lĩnh vực, địa bàn, đối tượng cần có sự phối hợp liên ngành để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị trong PBGDPL.
- Tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong công tác PBGDPL, trọng tâm là chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ, giải quyết, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc; kiểm tra, sơ kết, tổng kết, xây dựng, nhân rộng các cách thức, mô hình PBGDPL có hiệu quả; biểu dương, tôn vinh các gương sáng trong xây dựng, thi hành pháp luật.
- Củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cán bộ quản lý nhà nước về PBGDPL; đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật theo hướng chuyên sâu, chuyên biệt cho đối tượng đặc thù, yếu thế. Có chính sách ưu tiên sử dụng đội ngũ người biết tiếng dân tộc thiểu số, người có uy tín trong cộng đồng dân cư, già làng, trưởng bản, chức sắc, chức việc trong các tôn giáo ở vùng dân tộc thiểu số tham gia PBGDPL.
- Bố trí kinh phí bảo đảm cho công tác PBGDPL hiệu quả. Ưu tiên nguồn lực PBGDPL cho các nhóm đối tượng đặc thù, yếu thế, địa bàn trọng yếu về quốc phòng an ninh; quản lý, khai thác, lồng ghép và sử dụng có hiệu quả nguồn lực đầu tư cho công tác PBGDPL. Đa dạng hóa nguồn lực xã hội trong PBGDPL. Từng bước tiến tới giảm thiểu ngân sách nhà nước cho công tác PBGDPL; Nhà nước chỉ giữ vai trò quản lý nhà nước, tạo điều kiện, cung cấp thông tin pháp luật cho người dân thông qua các thiết chế hỗ trợ thông tin gắn với trách nhiệm của người dân chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật.
- Chú trọng công tác kiểm tra, tự kiểm tra; giám sát việc thực hiện công tác PBGDPL; sơ kết, tổng kết, nhân rộng các mô hình hay, cách làm hiệu quả. Tổ chức đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL theo hướng chú trọng kết quả đầu ra; coi đây là giải pháp có tính đột phá nhằm tạo chuyển biến căn bản trong chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL./.
[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật), trang 96, 97 và 118
[2] Mục 1 Nghị quyết số 16/2021/QH15
[3] Theo Báo cáo số 321/BC-BTP ngày 31/12/2021 của Bộ Tư pháp về tình hình 03 năm triển khai thi hành Luật Tiếp cận thông tin năm 2016
[4] Tính đến nay, cả nước có 1.776 báo cáo viên pháp luật trung ương, 7.379 báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh, 17.576 báo cáo viên pháp luật cấp huyện, 141.936 truyền truyền viên pháp luật cấp xã, 540.740 hòa giải viên, trên 16.300 luật sư, 4.500 tổ chức hành nghề luật sư, khoảng 200 Trung tâm tư vấn pháp luật với gần 40 Chi nhánh của Trung tâm tư vấn pháp luật, khoảng 3.200 người thực hiện tư vấn pháp luật, 2.500 cộng tác viên tư vấn pháp luật và gần 700 trợ giúp viên pháp lý
[5] Theo Báo cáo đánh giá nhận thức pháp luật và nhu cầu pháp luật của các nhóm yếu thế (tháng 8/2020)
[6] Ước tính số lượng người thuộc diện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam có khoảng 45 triệu người, mỗi năm trung bình có khoảng 35.000 vụ việc trợ giúp pháp lý